|
Gọi
Đò
(
Thúy
Cải
)
Thể
hiện
:
Nhiều
Ca
Sĩ
Tạp
chí
dành
cho
đàn
ông
nổi
tiếng
nước
Mỹ
Playboy
vừa
tuyên
bố
danh
sách 10
chiếc
xe
"
hot
"
nhất
năm
của
2010
,
trong
đó Porsche Panamera Turbo dành được giải Xe của năm 2010.
Xe
của
năm
2010
:
Porsche
Panamera
Turbo
Với
vẻ
bề
ngoài
cứng
cáp
,
động
cơ
V8
turbo
4.8L
mạnh
mẽ
cho
công
suất
500
mã
lực
,
Porsche
Panamera
Turbo
đã
dành
được
rất
nhiều
thiện
cảm
của
các
quý
ông
và
đạt
giải Xe
của
năm
20
10
.
Convertible tốt nhất: Ferrari California
Vì
sao
Ferrari
California
có
mặt
trong
danh
sách
này
?
Nó
được
đánh
giá
là
chiếc
mui
trần
sexy
nhất
,
tuyệt
vời với
những
đường
cong
mềm
mại
,
bắt
mắt
khiến
ai
cũng
bị
mê
hoặc
.
Xe có giá trị công suất tốt nhất: Nissan Nismo 370Z
Với
mức
giá
39
.
130
USD
,
công
suất
350
mã
lực
,
có
thể
nhiều
người
cho
rằng
Nissan
Nismo
370Z
không
hề
xứng
với
danh
hiệu
này
,
tuy
nhiên
,
vẻ
bề
ngoài
nhẹ
nhàng
quyến
rũ
đã
giúp
cho
Nismo
370Z
đánh
bại
các
đối
thủ
mạnh
khác
như Chevrolet Camaro
2010.
Xe
mạnh
mẽ
nhất
:
Mazdaspeed3
Kế thừa những ưu điểm từ những thế hệ trước, Mazdaspeed3 2010 hay còn gọi là Mazda3 MPS đã thể hiện đầy đủ và
rõ nét
hơn
triết lý
“Zoom- zoom” đầy tính sáng tạo của hãng.
Ngoài
màu
đỏ
rực
rỡ
,
chiếc
xe
này
còn
chiếm
được
cảm
tình
của
các
quý
ông
bởi
động
cơ
tăng
áp
mạnh
mẽ
2.4
L
V4
cho
công
suất
263
mã lực
,
tốc
độ
tối
đa
250 km/h và một cái giá “gây sốc” 23.495 USD.
Mẫu
xe
diesel
tốt
nhất
:
Audi
A3 TDI
Sở
hữu
một
thiết
kế
“
ngông
”
độc
đáo
,
động
cơ
diesel
2.0L
TDI
cho
công
suất
140
mã
lực
,
nhưng
Chiếc
xe
xanh
của
năm
do
tạp
chí
Green
Car
Journal
bình chọn
này
lại
có
hàm
lượng
khí
CO2
thải
ra
môi
trường
rất
ít
và
mức
tiêu
thụ
nhiên
liệu
cực
thấp
,
6,8
lít
/
100
km
trên
đường
cao
tốc
–
tiết
kiệm
hơn
5
0
%
so
với
mẫu
A3
phiên
bản
động
cơ
xăng.
Với
những
tính
năng
trên
,
Audi
A3
TDI
hoàn
toàn
xứng
đáng
với
danh
hiệu
này
.
Ngoài
ra
,
Playboy
còn
trao
tặng
thêm
nhiều
giải
khác
như
:
Xe
xanh
tiện
ích
nhất
-
Ford
Fusion
Hybrid,
Xe
thiết
kế
lại
tốt
nhất
-
Ford
Taurus
SHO
// // // // // //
Kinh tế Mỹ 2011: Những con số khó tin
(Dân trí) - Trong năm 2011, Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới tiếp tục đối mặt tứ bề khó khăn, bao gồm nguy cơ rơi vào suy thoái thêm lần nữa, tỷ lệ thất nghiệp bám trụ dai dẳng ở mức cao, nợ công chất cao như núi và bị hạ điểm tín nhiệm.
Tuy nhiên, trên đây chưa phải là tất cả những thách thức mà kinh tế Mỹ đang phải đương đầu. Với những số liệu ít nhiều gây bất ngờ về kinh tế Mỹ mà trang Business Insider vừa đưa ra, độc giả có thể hiểu rõ hơn về những bất ổn của nền kinh tế này, đặc biệt là về phương diện cuộc sống của những người dân Mỹ bình thường.
48%, tức là gần một nửa số người Mỹ hiện bị xem là có “thu nhập thấp” hoặc có mức sống nghèo khổ. Gần 57% số trẻ em ở Mỹ đang sống trong các hộ gia đình thu nhập thấp hoặc sống dưới ngưỡng nghèo.
Thu nhập bình quân của các hộ gia đình ở Mỹ đã giảm 6,8% trong thời gian từ tháng 12/2007 tới nay, có tính tới yếu tố lạm phát. Theo Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), riêng trong quý 3/2011, tổng giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình ở nước này giảm 4,1%.
Hiện nay, 1/7 dân số Mỹ sống phụ thuộc vào tem phiếu trợ cấp thực phẩm. 48,5% dân số nước này đang sống trong các hộ gia đình có nhận một dạng trợ cấp nào đó của Chính phủ. Vào năm 1983, tỷ lệ này đứng dưới mức 30%.
Theo một cuộc thăm dò mới đây, 77% các doanh nghiệp nhỏ của Mỹ không có kế hoạch thuê thêm lao động. Số việc làm tại Mỹ hiện nay đang ít hơn so với thời điểm năm 2000, cho dù dân số Mỹ đã tăng thêm 30 triệu người.
Một cuộc điều tra khác cho thấy, khoảng 1/5 số người Mỹ có việc làm tự xem mình là thất nghiệp một phần. 20% số người trưởng thành ở Mỹ đang làm những công việc có mức lương tương đương với cuộc sống dưới mức nghèo khổ.
Vào năm 1980, chưa đầy 30% số công việc ở Mỹ là những công việc thu nhập thấp. Hiện nay, tỷ lệ này là hơn 40%. Vào năm 1969, có 95% số đàn ông Mỹ trong độ tuổi 25-54 có việc làm. Vào tháng 7 năm nay, tỷ lệ này chỉ còn 81,2%.
37% số hộ gia đình ở Mỹ có chủ hộ dưới 35 tuổi có giá trị tài sản ròng bằng 0 hoặc dưới 0. Số người Mỹ có mức sống cực nghèo hiện chiếm tỷ lệ cao kỷ lục 6,7%.
1/3 dân Mỹ không thể trả tiền vay mua nhà hoặc tiền thuê nhà vào tháng kế tiếp nếu đột ngột mất công việc hiện tại.Theo một nghiên cứu mới đây do Viên nghiên cứu đầu tư BlackRock thực hiện, tỷ lệ nợ so với thu nhập của các hộ gia đình ở Mỹ hiện đang ở mức 154%.
Nước Mỹ đang ở trong một cuộc khủng hoảng hưu trí. Theo Viện nghiên cứu phúc lợi lao động Mỹ, 46% số người lao động nước này có chưa đầy 10.000 USD và 29% có dưới 1.000 USD tiền tiết kiệm cho lúc về hưu. Tỷ lệ số người già Mỹ sống dưới chuẩn nghèo liên bang hiện ở mức 1/6.
Trong khi đó, nghiên cứu cho thấy, trong thời kỳ 12 tháng mới đây, lương của các giám đốc điều hành (CEO) tại các công ty Mỹ lớn nhất tăng 36,5%. Sáu người thừa kế của gia đình Walton, chủ hãng bán lẻ Wal-mart, có tổng tài sản bằng xấp xỉ tổng tài sản của 30% số người Mỹ nghèo nhất cộng lại.
Kinh tế đi xuống, người Mỹ đâm ra “ngại” hôn nhân. Một phân tích của Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy, hiện chỉ có 51% số người Mỹ từ 18 tuổi trở lên đang có vợ/chồng. Vào năm 1960, tỷ lệ này là 72%. Tỷ lệ nam giới người Mỹ trong độ tuổi 25-34 đang sống cùng bố mẹ là 19%.
Tại Stockton, bang California , giá nhà hiện đã giảm 64% từ mức đỉnh cách đây vài năm. Trong khi đó, bang Nevada của Mỹ đã tháng thứ 59 liên tiếp có tỷ lệ tịch biên nhà cao nhất toàn quốc. Giá nhà bình quân ở Detroit hiện chỉ có 6.000 USD/căn. Còn ở bang Florida , 18% số căn nhà hiện đang trong tình trạng bị bỏ trống. Số nhà mới khởi công tại Mỹ năm nay đã giảm xuống mức thấp kỷ lục.
Thật khó tin, nhưng các cuộc điều tra cho thấy, 1/7 số người Mỹ có ít nhất 10 thẻ tín dụng. Các ngân hàng Mỹ đang ngày càng lớn hơn, với tổng tài sản của 6 ngân hàng lớn nhất nước này tăng 39% trong thời gian 30/9/2006-30/9/2011.
Nước Mỹ chi 4 USD cho hàng hóa và dịch vụ từ Trung Quốc thì Trung Quốc mới chi 1 USD cho hàng hóa và dịch vụ từ Mỹ. Theo dự báo, thâm hụt thương mại của Mỹ năm nay sẽ lên tới 558,2 tỷ USD.
Chi tiêu công đang chiếm khoảng 24% GDP Mỹ, so với mức 18% năm 2001.
Trong năm tài khóa 2011, ngân sách liên bang Mỹ thâm hụt gần 1,3 nghìn tỷ USD, đánh dấu năm thứ ba liên tục thâm hụt trên 1 nghìn tỷ USD. Nếu tỷ phú Bill Gates tặng hết tài sản cho Chính phủ Mỹ, thì Washington cũng chỉ khắc phục được tình trạng bội chi trong vòng có 15 ngày.
Chính phủ Mỹ hiện đang nợ tổng số tiền 15 nghìn tỷ USD, so với mức chưa đầy 10,6 nghìn tỷ USD khi Tổng thống Barack Obama mới nhậm chức. Từ đầu nhiệm kỳ của ông Obama, nợ quốc gia Mỹ tăng trung bình 4 tỷ USD/ngày. Lượng nợ công của Mỹ tích lũy trong thời gian ông Obama cầm quyền tới nay nhiều hơn cả số nợ tích lũy từ khi Tổng thống George Washington nhậm chức cho tới khi Tổng thống Bill Clinton nhậm chức.
Nếu ngay từ bây giờ, Chính phủ Mỹ bắt đầu trả nợ công với tốc độ 1 USD/giây, thì Washington sẽ mất thời gian 440.000 năm để trả xong nợ.
Brazil “vượt mặt” Anh trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới
(Dân trí) - Theo xếp hạng mới nhất của Trung tâm nghiên cứu kinh tế, kinh doanh (CEBR), nhờ xuất khẩu sang Trung Quốc và châu Á tăng mạnh nên Brazil - nền kinh tế lớn nhất Nam Mỹ đã vượt qua Anh trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới.
Trong khi đó, Anh rơi xuống vị trí số 7 do ít nhiều ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu và suy thoái kinh tế thế giới.
Brazil - nền kinh tế lớn nhất Nam Mỹ đã vượt qua Anh trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 thế giới.
CEBR cũng dự đoán, Nga và Ấn Độ cũng được kỳ vọng sẽ được tăng trưởng mạnh trong 10 năm tới, và có thể sẽ sớm đẩy Anh xuống vị trí thứ 8.
Giống như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, Ấn Độ cũng đang phải vật lộn với tình trạng lạm phát tang cao và tăng trưởng chậm. Tuy nhiên, nhờ lực lượng lao động trình độ cao và tăng trưởng trong ngành công nghệ thông tin và dịch vụ kỹ thuật, kinh tế nước này được kỳ vọng sẽ sớm vươn lên vị trí thứ 5 thế giới.
Còn Nga, sau nhiều thập kỷ bán dầu mỏ và khí ga cho châu Âu và châu Á, sẽ sớm lên vị trí thứ 4.
Niềm an ủi duy nhất của Anh là hiện nay kinh tế Pháp đang tụt dốc nhanh chóng. Theo nhận định của CEBR, có thể Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy sẽ vẫn giữ được vị trí thứ 5 thế giới cho quốc gia này, sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Đức, nhưng đến năm 2020, quốc gia này tụt xuống vị trí thứ 9, sau cả Anh. Cũng theo dự báo của tổ chức này, Đức sẽ rớt xuống vị trí thứ 7 vào năm 2020.
Giám đốc điều hành CEBR Douglas McWilliams nhận xét, “Trong bóng đá, Brazil đã nhiều lần đánh bại các quốc gia châu Âu, nhưng trong kinh tế thì đó là một hiện tượng hết sức mới mẻ. Bản đồ kinh tế thế giới đang thay đổi với sự vươn lên của các quốc gia châu Á và sự đi xuống của các nền kinh tế châu Âu”.
Châu Âu được dự báo sẽ phải chịu một “thập kỷ mất mát” với tăng trưởng chậm. Áp lực trả nợ trong thời gian ngắn sẽ hạn chế tăng trưởng của các nước châu Âu trong nhiều năm. Tuy nhiên, Liên minh châu Âu (EU) sẽ vẫn là một liên minh kinh tế lớn nhất thế giới, bất chấp suy thoái kinh tế.
Theo dự báo mới nhất của CEBR, năm 2012, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ giảm xuống còn 2,5%, giảm so với mức dự báo tổ chức này công bố hồi tháng 9 vừa rồi. Tuy nhiên, CEBR cũng cảnh báo về viễn cảnh trong đó “ít nhất một quốc gia sẽ phải rời khỏi khu vực đồng tiền chung euro, vỡ nợ công, sự sụp đổ của các ngân hàng và các gói cứu trợ” sẽ còn khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu 2012 giảm hơn nữa, thậm chí xuống 1,1%.Gia nhập WTO = quốc tế hóa năng lực Việt Nam
|
Phan Thế Tạp chí Hà Nội ngàn năm |
02:40' PM - Thứ hai, 21/05/2007 |
|
Nguyễn Trần Bạt là người sáng lập, Chủ tịch kiêm TGĐ Invest Consult Group. Ông không chỉ là một doanh nhân thành đạt, một luật sư và nhà tư vấn xuất sắc mà còn được biết đến như là một trong những doanh nhân Việt Nam hội nhập rất sớm vào thương trường quốc tế. WTO được coi là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất của Việt Nam trong hơn 20 năm qua, tuy nhiên hiểu thế nào về WTO là điều không dễ. Để cung cấp cho bạn đọc thêm một cách nhìn về tổ chức này chúng tôi dã có cuộc trao đổi với Nguyễn Trần Bạt xung quanh đề tài trên. Đã vào sân chơi của WTO, vậy năng lực của nền kinh tế Việt Nam thế nào? Có đứng vững trước sóng gió cạnh tranh hay không? Đâu là cơ hội cất cánh của Việt Nam ?
Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
Phan Thế: Thưa ông, nước ta đã có 20 năm đổi mới rồi nhưng kinh tế vẫn phát triển thấp, vậy 20 năm đổi mới ấy đã tích lũy đủ về lượng để biến đổi về chất chưa?
Nguyễn Trần Bạt: Chúng ta đổi mới 20 năm, đã khá hơn trước đây. Nhưng có những dân tộc khi gia nhập WTO người ta đã đổi mới 100 năm, người ta đổi mới liên tục, cho nên, chúng ta có thể tự hào vì chúng ta đã đổi mới, nhưng không thể tự hào là đã đổi mới lâu quá rồi. Tôi nói rằng, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam khi hội nhập còn nhiều hạn chế.
Khả năng cạnh tranh là gì? Khả năng cạnh tranh chính là khả năng có thể huy động được các nguồn lực. Xã hội chúng ta là xã hội chưa có nguồn lực có khả năng cạnh tranh, bình quân thu nhập đầu người mới 400 -500 USD/năm thôi, bảy giờ nghe nói là lên được 700 USD. Tuy nhiên, con số này vẫn rất thấp. Chúng ta là một nước có chỉ tiêu phát triển thấp so với toàn bộ điều kiện phát triển của nền kinh tế thế giới, vì thế chúng ta còn phải cố gắng nhiều lắm. Ta không thể ỉ lại vào việc đã đổi mới tới 20 năm, mặc dù 20 năm là một thời gian rất dài đối với mỗi một cá nhân, nhưng đối với sự phát triển của một dân tộc thì nó ngắn và chưa đủ.
WTO không phải là trận vỡ đê
Phan Thế: Ông có nói rằng khả năng cạnh tranh của Việt Nam là thấp. Vậy việc gia nhập WTO có thực sự giúp ích cho doanh nghiệp Việt Nam không? Theo ông, ở Việt Nam hiện nay những ngành nào có thể chủ động khi hội nhập?
Nguyễn Trần Bạt: Tôi nói rằng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam là thấp, chứ tôi không nói sức cạnh tranh của bất kỳ ngành nghề nào của Việt Nam là thấp. Khi nào anh có sức cạnh tranh cao thì anh cạnh tranh, cuộc sống bắt anh phải cạnh tranh. Nếu anh liều mạng cạnh tranh khi anh không đủ tiềm lực thì Công ty anh phá sản. Người ta cường điệu việc phải cạnh tranh quốc tế khi chúng ta gia nhập WTO, nhưng thực ra WTO là nơi chỉ để giải quyết các khúc mắc trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Trước khi chúng ta gia nhập WTO thì chúng ta đã cạnh tranh rồi, đã buôn bán quốc tế rồi. Chúng ta đều biết rằng, lộ trình để Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh là tới 12 năm. Đã có lộ trình cho nên chúng ta cứ bình tĩnh mà làm.
WTO không phải là một trận vỡ đê, không phải là một cơn lũ, không phải là một trận bão. Nó là một làn gió rất mát, nhưng chúng ta muốn không bị cảm thì phải có áo quần tử tế và chúng ta chuẩn bị đần. Không phải gia nhập WTO cạnh tranh ngay từ đây lên đến Lào Cai đâu. Nó không khốc liệt như thế, vì trên thế giới này có 150 nước gia nhập WTO thì Việt Nam là nước thứ 150 mà thế giới cũng chỉ có khoảng 200 nước, có nghĩa là chỉ có 50 nước nữa chưa gia nhập thôi. Người ta sống được thì mình sống được, người Việt Nam mình có đến nỗi nào đâu. Cho nên, tôi nghĩ rằng chúng ta không nên quá băn khoăn về chuyện ấy.
Trước đây khi chúng ta đóng cửa lại chúng ta thấy ít tự do, chúng ta tiếp xúc với người nước ngoài khó, chúng ta đọc sách cũng khó, sách dịch không có nhưng bây giờ cái gì cũng có, tức là hội nhập đem lại rất nhiều may mắn. Chúng ta cứ đi qua tất cả các nỗi sợ, chúng ta sẽ thấy không sợ nữa. Chúng ta phải mở mắt ra để đối diện với tất cả các thách thức, để thắng nỗi sợ, để "sợ” không còn là ngôn ngữ mà chúng ta dùng để giao tiếp với sự hội nhập nữa.
Biến nông thôn đơn giản thành nông thôn có chất lượng thương mại
Phan Thế: Theo ông làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh cua nông dân Việt Nam khi gia nhập WTO?
Nguyễn Trần Bạt: Nông dân Việt Nam muốn cạnh tranh tốt thì cũng phải làm như nông dân các nước khác, chẳng có cách nào khác cả. Một trong những điều kiện mà Chính phủ chúng ta rất khó xử khi đàm phán để gia nhập WTO chính là chấm đứt tình trạng bảo hộ đối với các sản phẩm nông nghiệp. Các bạn biết rằng, ở châu âu người ta không bỏ phiếu phê chuẩn Hiến pháp chung châu âu là bởi sự bất mãn của người nông dân Châu Âu đối với các điều khoản về trợ cấp nông nghiệp của EU. Tất cả các vòng đàm phán của WTO được diễn ra một cách cực kỳ gay gắt chủ yếu bởi vấn đế trợ cấp nông nghiệp. Cho nên, chúng ta gia nhập WTO thì người nông dân phải vươn lên. Người nông dân vươn lên không có nghĩa là người nông dân phải đi học luật WTO. Người nông dân vươn lên là người nông dân tìm ra chất chuyên nghiệp để biến nông thôn đơn giản thành một nông thôn có chất lượng thương mại.
Tôi đã từng nói chuyện với ông Phạm Chánh Trực là Phó ban Kinh tế Trung ương Đảng, ông ấy hỏi tôi một câu tương tự như vậy: Làm thế nào để nâng cao các giá trị thương mại của các sản phẩm nông nghiệp ở ĐBSCL? Tôi trả lời rằng phải thay thế bằng các hình thức khác, bằng các Công ty nông nghiệp, các Công ty thương mại nông thôn hay là thương mại trên các sản phẩm nông nghiệp. Bây giờ chúng ta đã bắt đầu có các sản phẩm bán ra với tư cách là sản phẩm có chất lượng thương mại chứ không phải là những sản phẩm có chất lượng thuần nông. Tự do hóa thương mại tức là tạo điều kiện để thương mại phát triển một cách không biên giới, đã không biên giới thì mọi người đều giống nhau, mọi người muốn giống nhau thì mọi người phải học tập để cho giống nhau. Người nông dân Việt Nam cũng phải làm như vậy, còn làm bằng cách nào thì tôi nghĩ là, xây dựng các Công ty kinh doanh ở nông thôn là một trong những cách tốt nhất. Cần phải thu hút tất cả những nhà đầu tư, tất cả những người có tiền, tất cả những người có trí khôn đô thị đầu tư vào nông thôn để lập ra những Công ty buôn bán các sản phẩm của nông dân.
Quốc tế hóa năng lực Việt Nam
Phan Thế: Thưa ông, khi tham gia WTO, việc chiếm lĩnh thị trường nước ngoài của hàng hóa Việt Nam có phải là không tưởng không, vì trên thực tế họ phát triển hơn mình và lĩnh vực dịch vụ của họ rẻ hơn mình?
Nguyễn Trần Bạt: Không phải vay. Nền kinh tế của chúng ta có thể thấp hơn, người của ta có thể kém hơn, nhưng sản phẩm của chúng ta chưa chắc đã thấp hơn. Một trong những hiệp định mà chúng ta buộc phải đàm phán một cách gay gắt nhất để có thể tiến tới việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính là Hiệp định Dệt - May. Điều đó có nghĩa là sản phẩm dệt may, nền công nghiệp dệt may Việt Nam có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm dệt may Hoa Kỳ , cho nên việc đàm phán về dệt may mới trở nên khó khăn như vậy. Đừng đồng nhất năng lực hiện tại của người Việt với năng lực của sản phẩm, bởi những sản phẩm Việt Nam không chỉ phản ánh năng lực Việt Nam mà còn phản ánh cả năng lực của những lực lượng quốc tế có mặt trên lãnh thổ Việt Nam.
Cũng chính vì thế mà người ta mới kêu gọi đầu tư nước ngoài. Kêu gọi đầu tư nước ngoài là một cách quốc tế hóa các năng lực của xã hội Việt Nam để tranh thủ hội nhập một cách thuận lợi. Vẫn có nhiều sản phẩm Việt Nam đang giữ địa vị cạnh tranh. Thủ tướng Việt Nam vừa nói cách đây mấy hôm trên nghị trường rằng, cafe Việt Nam hiện nay xuất khấu thứ 2 thế giới, hồ tiêu thứ 5, thứ 7, gạo lên tầm thứ nhất, thứ hai và nhiều thứ nữa. Cho nên, chúng ta không hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ chiếm một địa vị khả quan so với các nền kinh tế phát triển ở trên thế giới, nhưng như thế không có nghĩa rằng không có sản phẩm nào của Việt Nam có địa vị trên thế giới, thậm chí địa vị lãnh đạo nền công nghiệp thế giới. |
// /Giá xăng, điện, than vẫn "bức bối" muốn tăng?
Về giá điện, theo Bộ Tài chính, mặc dù từ 1/3 đã tăng bình quân 165đ/kWh, tương đương 15,28%, song mức giá này vẫn chưa tính đủ chi phí phát sinh, và tính theo tỷ giá 19.500 VND/USD, thấp hơn nhiều mức 20.800 hiện tại. Theo Bộ này, tại thời điểm tính giá không tính lợi nhuận của ngành điện, và khoản lỗ của EVN trong năm 2010 vẫn còn "khoanh lại".
Xăng, điện, than phục vụ điện không có lãi?
Tương tự, theo thông tin mà Bộ Tài chính đưa ra thì giá than trong nước cũng đang chịu áp lực dù than bán cho ngành điện đã tăng 5% cùng với mức tăng giá điện, nhưng tính cả điều chỉnh này thì giá than phục vụ điện chỉ bằng 28 - 32% giá xuất khẩu cùng loại. Thực tế, từ 1/4 giá than phục vụ ngành ximăng, giấy, phân bón và các hộ nhỏ lẻ cũng tăng từ 19% đến gần 50%.
Trước đó, trong tháng 7, UB Tài chính - Ngân sách Quốc hội đề xuất tăng thuế bảo vệ môi trường với than lên thêm 5 - 10 nghìn đồng/tấn so với mức sàn hiện nay là 10 - 20 nghìn đồng/tấn. Tuy nhiên, Thường vụ Quốc hội đã quyết định giữ mức thuế hiện nay vì sợ việc tăng thuế với than sẽ làm tăng giá điện.
Quanh vấn đề "nóng" xăng dầu, vốn được coi đang trong giai đoạn "quá độ" từ bao cấp qua giá lên điều hành theo cơ chế thị trường, liên Bộ Tài chính - Công thương đã 2 lần tăng giá xăng dầu "ở mức có kiềm chế" vào ngày 24/2 và 29/3.
Theo Bộ Tài chính, với việc sử dụng công cụ điều hành bằng thuế nhập khẩu xăng dầu (hiện ở mức 5% với diezen và dầu hỏa, 0% với xăng và mazut) và Quỹ bình ổn giá (hiện ở mức trích 400 đồng/lít xăng dầu), giá xăng dầu đã ổn định từ 29/3 tới nay.
Trước đó, Bộ Tài chính đã hơn một lần khẳng định chưa thể xem xét giảm giá xăng dầu vì hiện các DN kinh doanh xăng dầu chưa có lãi. Trước dư luận đòi minh bạch hóa câu chuyện giá xăng dầu cũng như Quỹ bình ổn giá, tân Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ khẳng định sẽ minh bạch các chi phí, mức giá cơ sở của xăng dầu.
Cũng theo Bộ này, trong những tháng cuối năm, Bộ sẽ thực hiện việc bình ổn giá, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô thông qua 5 giải pháp, trong đó đáng chú ý nhất là việc xóa bao cấp qua giá theo lộ trình với các loại hàng hóa, dịch vụ bao cấp như điện, xăng dầu, nước sạch, than bán cho điện…
/ // /Các thí nghiệm ngẫu nhiên ở 2.564 khung hình,89,123,89 1110 1011/ // // .
HSDD, NSD .CNDT,DNH |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét