Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Chelsea















Katy Petty

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Dạo này hình như đang cực “bồ kết” mái tóc xanh thì phải, cô nàng đã giữ nguyên màu tóc này để đi tham dự Tuần lễ Thời trang Paris. Nhưng vấn đề không phải là mái tóc mà nằm ở chiếc váy xanh xuyên thấu và chẳng hề tôn được vóc dáng của cô.
Paris Hilton

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

"Người đẹp tiệc tùng" đã diện chiếc váy gợi cảm này trong bữa tiệc sinh nhật lần thứ 31 của mình tại Hollywood. Tuy cũng là chất liệu trong suốt nhưng chiếc váy này cũng chưa đến nỗi bị coi là phản cảm.
Oona Castilla Chaplin

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy


Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Cháu gái 25 tuổi của vua hài nổi tiếng Chaplin đã tham dự một sự kiện tại London hôm 1/3. Trong sự kiện này, cô gái đã “copy” lại dáng đứng “bất hủ” của bà Smith tại lễ trao giải Oscar vừa qua nhằm mục đích khoe đôi chân dài của mình. Chiếc váy ren này bị ném đá vì đường xẻ quá táo bạo và Oona lại còn tạo dáng rất hồn nhiên.
Imogen Thomas

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy


Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

"Cô nàng lắm chiêu" đã mặc kệ gió thổi tốc váy, mỉm cười và tiếp tục đi dạo tại công viên ở London (Anh) hôm 3/3. Khoảnh khắc chiếc váy bay cao quá tầm kiểm soát này đã lọt vào ống kính phóng viên.
Lý Tiểu Lộ

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Diễn viên, ca sĩ Hoa ngữ Lý Tiểu Lộ tuần qua đã bị “ném đá” cực nhiều trên các diễn đàn vì bộ váy cô chọn trong Tuần lễ Thời trang Paris bị coi là cố tình phô diễn vòng 1. Trước việc nữ diễn viên này ăn mặc kiểu "show hàng", một số cư dân mạng lên tiếng đả kích và cho rằng sự hở hang này của của cô làm mất hình ảnh đẹp của nghệ sĩ Trung Quốc trong lòng khán giả phương Tây.
Brittney Palmer

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Trang phục của người mẫu Brittney Palmer khi cô tự hào khoe hình của chính mình trên bìa tạp chí Playboy cũng làm cho không ít người cảm thấy “thương cho vòng 1” của cô đã bị chính chủ nhân chèn ép không thương tiếc.
Lady Gaga

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy


Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy


Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Nữ ca sĩ "Born This Way" tung tẩy đi dạo trên đường phố New York với trang phục hở hang “trên mức cho phép” đã làm không ít người cảm thấy choáng váng. Vẫn là Lady Gaga với phong cách không thể lập dị hơn từ kính, áo, giày…
Adrienne Bailon

Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy


Sao thi nhau đốt mắt fan bằng váy

Nữ ca sỹ, diễn viên nổi tiếng người Mỹ Adrienne Bailon khiến cánh phóng viên được phen "đã mắt" khi quyết định diện váy ren mỏng không “nội y” tham dự một sự kiện hôm 2/3. Cô nàng thậm chí còn tỏ ra tự hào và không hề ngại ngần khi cánh phóng viên áp sát để chụp ảnh bộ trang phục khó hiểu này.Cô nàng Ji Yeon (T-ara) đã "đánh bại" cả Yoona (SNSD) và Suzy (missA) để giành "quán quân" cuộc bình chọn.
Ji Yeon thật không hổ danh là “tiểu Kim Tae Hee”. Trong khi đàn chị của “Chuyện tình Harvard” luôn được coi là chuẩn mực nhan sắc xứ Kim chi thì mới đây, cô em út nhóm T-ara cũng giành ngôi vị quán quân trong cuộc bầu chọn mang tên “Thành viên nhóm nhạc nữ có gương mặt hoàn hảo nhất”. Đáng nói là Ji Yeon đã “qua mặt” nhiều tên tuổi “sừng sỏ” như Yoona và Seohyun (SNSD).
 


Ji Yeon có gương mặt hoàn hảo nhất
Cuộc khảo sát được một bệnh viện thẩm mỹ tiến hành từ ngày 30/1 tới 29/2 trên những con đường đông đúc khu Myeongdong và Apgujeong của Hàn Quốc. Trong thời gian đó, đã có khoảng 486 người đàn ông, độ tuổi 20 - 30 tham gia bầu chọn. Kết quả, cô ca sĩ xinh đẹp Ji Yeon đã “cán đích” ở vị trí đầu tiên với số phiếu áp đảo, 210 phiếu (43,2%).
 


Ji Yeon được đến hơn 43% phiếu bầu chọn
Theo sau “em út nhóm T-ara” là “bộ đôi em út” của nhóm nhạc nữ quốc dân, Seohyun và Yoona. Trong khi Seohyun giành được 132 phiếu bầu (27,2%) thì Yoona cũng giành 130 phiếu (26,7%). 
 


Seohyun xếp thứ hai với 27,2%


Thứ 3 là Yoona
Các vị trí tiếp theo lần lượt thuộc về Sulli (f(x)) và Suzy (miss A). Thật trùng hợp là trong cuộc bình chọn này, gần như tất cả kiều nữ được “vinh danh” đều là em út của các nhóm nhạc nữ.


Sulli của f(x) và


Suzy đều nằm trong top các sao nữ xinh đẹp nhất Hàn Quốc
Giám đốc viện thẩm mỹ tiến hành khảo sát giải thích: “Các cô gái đều có đường nét gương mặt hết sức tự nhiên. Từ mọi góc độ, trông họ đều rất nhẹ nhàng và nữ tính. Khuôn mặt của Ji Yeon vừa dễ thương lại vừa quyến rũ. Tôi nghĩ rằng đó là lý do cô ấy được nhiều người lựa chọn”.
Cùng ngắm bộ ảnh mới nhất của Ji Yeon cho tạp chí Egoist nhé! 
 















My best friend
 
Thanh Tra Blog
 
http://ems.euromoneyplc.com/gifs/22/Ashby%20Monk%20Daily/AM-2-28AR_large.jpgmoto,8932,moto     moto,3218=100,moto 1988,8389,8367,1988


 Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập

Trước giờ diễn ra đêm chung kết cuộc thi Hoa hậu quốc tế 2010 tại nhà thi đấu Tứ Xuyên (Thành Đô, Trung Quốc) vào tối 7/11, hôm qua, Chung Thục Quyên và các người đẹp đã tất bật lao vào tập luyện.
Lịch tập luyện khá căng thẳng do thời gian chuẩn bị cho đêm chung kết không còn nhiều, tuy nhiên, Chung Thục Quyên cho biết cô và các thí sinh cảm thấy rất vui vì những màn nhảy múa rất sôi động. Cô kể, dẫu khá vất vả cho việc tập luyện và chạy theo lịch trình của ban tổ chức dành cho các thí sinh nhưng hễ có cơ hội rảnh là cô lại liên lạc về quê nhà, với công ty EVE - đơn vị đề cử cô đi thi để cung cấp và chia sẻ thông tin.
Theo dự kiến, đêm chung kết Chung Thục Quyên và các thí sinh sẽ tham gia 4 phần thi chính với trang phục truyền thống, trang phục bikini, trang phục Trung Quốc và dạ hội.
Dưới đây là những hình ảnh mới nhất:
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Chung Thục Quyên tất bật trên sàn tập
Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Triển lãm ôtô Việt Nam mới kết thúc là nơi được các hãng xe chọn để giới thiệu một số mẫu xe mới chuẩn bị tung ra thị trường trong năm 2011 như Ford Fiesta, Honda Accord, Suzuki Kizashi hay Toyota Innova G Luxury.
Vietnam Motor Show 2010 - triển lãm lớn nhất trong năm của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã kết thúc. Tuy được đánh giá là không có nhiều đột biến so với các năm trước, nhưng sự xuất hiện của một số mẫu xe mới cùng những nỗ lực của các nhà sản xuất trong việc thiết kế gian hàng và mang đến cho khách tham quan những màn trình diễn hấp dẫn đã góp phần mang lại thành công cho kỳ triển lãm năm nay.
Dưới đây là những mẫu xe nhiều khả năng sẽ xuất hiện trên thị trường Việt Nam trong năm 2011:
Toyota Innova G Luxury

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Nội thất Innova G Luxury được trang bị thêm và cải tiến một số chi tiết so với dòng Innova G về cả nội và ngoại thất. Bên cạnh những chi tiết được mạ crôm như ốp gương, ống xả, bậc lên xuống... làm tăng thêm vẻ sang trọng cho chiếc xe, những cải tiến về nội thất cũng hướng đến đối tượng khách hàng doanh nhân, như ghế bọc da và hàng ghế thứ hai thiết kế theo kiểu ghế thương gia, tại sự thân thiện, thoải mái cho hành khách. Màn hình LCD-DVD 8 inch giúp hành khách phía sau thư giãn thoải mái.
Toyota hiện chưa công bố giá bán của Innova G Luxury.
Ford Fiesta

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Ford Fiesta phiên bản sedan 4 cửa.
Ford mang đến triển lãm Vietnam Motor Show 2010 hai phiên bản Fiesta thể thao, bao gồm mẫu 5 cửa màu mận tím và 4 cửa màu vàng cát, với động cơ dung tích 1.6L. Dòng xe nhỏ đang được yêu thích trên toàn cầu này của Ford sẽ có mặt tại thị trường Việt Nam vào đầu năm 2011, với ba phiên bản.
Cao cấp nhất là Fiesta Sport hatchback (5 cửa) trang bị động cơ 1,6 lít I4, công suất 121 mã lực ở vòng tua 6.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 151 Nm ở 4.050 vòng/phút. Động cơ này sử dụng công nghệ điều khiển van biến thiên cho cả van nạp và xả Ti-VCT. Hộp số 6 cấp ly hợp kép Powershift.

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Ford Fiesta hatchback 5 cửa.
Hai bản 4 cửa (sedan) trang bị động cơ 1,6 (giống Fiesta hatchback) và 1,4 lít. Động cơ 1,4 lít có công suất 95 mã lực ở 5.750 vòng/phút và mô-men xoắn cực đại 126 Nm ở 4.200 vòng/phút. Bản 1,6 lít đi cùng hộp số 6 cấp ly hợp kép Powershift trong khi bản 1,4 lít lắp số sàn 5 cấp.
Thiết kế theo ngôn ngữ ‘kinetic’ tạo nên vẻ ngoài hoàn toàn khác biệt và bắt mắt. Bên cạnh đó, sự kết hợp của nhiều chi tiết thiết kế mới lạ và sang trọng cũng sẽ giúp cho Fiesta khẳng định được tính năng vượt trội của mình.
Honda Accord

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Phiên bản Accord được Honda trưng bày tại Vietnam Motor Show 2010 là mẫu xe được nhập nguyên chiếc từ Thái Lan, sẽ được phân phối ra thị trường Việt Nam đầu năm 2011 để cạnh tranh với Toyota Camry và Ford Mondeo.
Honda Accord được trang bị động cơ V6 i-VTEC 3.5L cho công suất tối đa 275 mã lực tại 6.200 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 339 Nm ở 5.000 vòng/phút, tích hợp công nghệ kiểm soát van VCM, giúp tiết kiệm nhiên liệu. Hộp số tự động 5 cấp có lẫy chuyển số gắn trên vô-lăng.

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Xe còn được trang bị các thiết bị an toàn tiêu chuẩn cao cấp như hệ thống cân bằng điện tử VSA, hệ thống chống bó cứng phanh ABS, túi khí bên hông thông minh OPDS, túi khí trên rèm cửa, tựa đầu linh hoạt...
Giá bán và kế hoạch phân phối sản phẩm chi tiết chưa được Honda Việt Nam tiết lộ.
Suzuki Kizashi

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Suzuki Kizashi mới được ra mắt trên thế giới hồi đầu tháng 4, trước thềm triển lãm xe hơi New York. Mẫu xe này được kỳ vọng sẽ là đối thủ xứng tầm của Toyota Camry và Honda Accord trong phân khúc sedan hạng trung.
Thiết kế của Kizashi mang phong cách thể thao, năng động nhưng vẫn sang trọng, tinh tế, với lưới tản nhiệt to, đèn xe lấy cảm hứng từ những thiết kế trang sức độc đáo. Khung sườn nhẹ nhưng chắc chắn nhờ sử dụng thép có khả năng chịu lực và giãn nở cao. Ở bên trong, Kizashi được trang bị hệ thống ghế ngồi có chức năng nhớ tự động, có thể khôi phục tư thế ngồi ưa thích của người lái khi có người khác vừa sử dụng xe. Các công tắc, nút điều khiển được đặt ở những vị trí có thể dễ dàng nhận thấy bằng trực giác, giúp tài xế tập trung hơn khi lái xe.

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Suzuki Kizashi được trang bị động cơ DOHC 2.4L, cho công suất 176 mã lực ở 6.500 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 230 Nm ở 4.000 vòng/phút. Các trang thiết bị an toàn gồm có hệ thống túi khí SRS ở trước và hai bên cửa xe, hệ thống cân bằng điện tử ESP, hệ thống cảm ứng đỗ xe với màn hình cảm ứng hiển thị khoảng cách phía sau và còi báo động nhằm cảnh báo người lái mỗi khi xe gần chướng ngại vật.
Mitsubishi Pajero Sport

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Thiết kế Pajero Sport mang phong cách xe việt dã, với dáng vẻ hầm hố và có phần nào đó giống với mẫu bán tải Triton. Nội thất của xe khá đơn giản, với bảng điều khiển trung tâm gồm đầu CD, điều hòa tự động một vùng, cần số to bản và bọc da, vô-lăng tích hợp bộ chỉnh dàn âm thanh và lẫy chuyển số thể thao. Pajero Sport có 7 chỗ với hàng ghế thứ hai và thứ ba có thể gập xuống.
Xe được trang bị động cơ dầu Common rail - Turbo 2.5L tích hợp công nghệ đường dẫn chung và sử dụng tăng áp, công suất tối đa 134 mã lực ở vòng tua 4.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 314 Nm ở 3.500 vòng/phút. Hộp số tự động 4 cấp với chế độ bán tự động.

Xe cho thị trường Việt Nam năm 2011

Thừa hưởng hệ thống treo tiên tiến của mẫu xe danh tiếng Pajero, Pajero Sport là sản phẩm dành cho những người đam mê xe 2 cầu với hệ thống treo 4WD Super Select. Xe có khả năng chuyển đổi dễ dàng từ chế độ một cầu chủ động (2WD) sang hai cầu chủ động (4WD), hoặc ngược lại ngay khi xe đang chạy ở tốc độ cao.
Hệ thống an toàn gồm chống bó cứng phanh ABS, phân bổ lực phanh điện tử EBD, hai túi khí cho hàng ghế trước. Pajero Sport đã được đánh giá 6 sao trong các thử nghiệm va chạm tại Nhật Bản.'Người khổng lồ của văn học Mỹ' đoạt giải Bad Sex
Nhà văn 2 lần đoạt giải Putlizer sẽ được truy tặng Giải thưởng dành cho những tác phẩm miêu tả tình dục tồi tệ nhất. Norman Mailer thuyết phục Ban giám khảo bởi một đoạn văn ghi lại hành vi dẫn đến sự ra đời của kẻ độc tài Adolph Hitler.
McEwan được đề cử giải Bad Sex

The Castle in the Forest (Lâu đài trong rừng) là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Mailer. Từ điểm nhìn của một con quỷ, nhà văn đã miêu tả "trận mây mưa" giữa Klara - mẹ của Hitler và Alois - người đàn ông được coi là chú ruột của bà. Trong cuộc tình loạn luân này, Mailer miêu tả, Klara "riết chặt lấy Alois với niềm khát khao của một con quỷ".
Nhà văn Norman Mailer.
Nhà văn Norman Mailer.

Ban giám khảo giải Bad Sex cho biết, họ kính trọng Mailer với tư cách là bậc thày vĩ đại trong nền văn học Mỹ, ngợi ca "những bài báo đổi mới, tinh thần hiếu chiến và tình yêu cuộc sống của ông". Nhưng họ không thể không trao cho ông giải thưởng này vì một đoạn văn trong cuốn tiểu thuyếtThe Castle in the Forest. Trong danh sách chung khảo, ngoài Norman Mailer còn có Ian McEwan, Jeanette Winterson, Chrítopher Rush, Gary Shteyngart...
"Chúng tôi chắc rằng, nhà văn sẽ coi giải thưởng này như một chuyện vui vẻ", đại diện của Ban giám khảo cho biết.
Mailer vừa qua đời hôm 10/11, ở tuổi 84.
(Nguồn: CBC)
Theo dòng sự kiện:
Người vợ hai bất hạnh của Norman Mailer
Nhà văn Norman Mailer lại nhập viện
Norman Mailer chuyện trò về Chúa
Norman Mailer và sự cố ‘đâm vợ bằng dao’
Nhà văn Norman Mailer nhập viện
Xem tiếp»


Các bài khác:


5 ngôn ngữ tình yêu của doanh nhân Nhiều cặp doanh nhân hăm hở, tràn đầy yêu thương trước ngày cưới nhưng sau đó đụng phải các vấn đề phức tạp của cuộc sống, lại lúng túng không biết cách giải quyết. Rất nhiều câu hỏi như vậy được doanh nhân đưa ra để nhờ đến giới chuyên gia tư vấn. Điều gì đang xảy ra trong cuộc sống vợ chồng của họ? Liệu có phải tình yêu của 2 người đang gặp rắc rối? Vấn đề chính nằm ở ngôn ngữ tình yêu mà mỗi chúng ta dùng để giao tiếp với nhau. Gary Chapman - chuyên gia tâm lý nhớ lại: "Ở độ cao 9.000 m, trên chuyến bay giữa Buffalo và Dallas, người đàn ông đặt tờ báo vào trong ngăn đựng đồ phía sau lưng ghế ngồi trước mặt và quay sang hỏi tôi. - Xin lỗi, anh làm nghề gì vậy? - Tôi tư vấn hôn nhân và tổ chức các buổi hội thảo giúp hạnh phúc gia đình bền vững. Tôi trả lời đơn giản. - Thế à? Tôi vốn thắc mắc mãi điều này mà không biết hỏi ai. Theo anh, sau ngày cưới, tình yêu sẽ đi về đâu? Hết hy vọng được chợp mắt đôi chút, tôi bèn hỏi lại anh ta: - Ý anh là sao? Tôi không hiểu lắm. Anh ta giải thích: - À, tôi từng kết hôn ba lần và lần nào cũng thế cả, hôn nhân của chúng tôi đều tan vỡ. Với những người phụ nữ từng đi qua đời tôi, tất cả tình yêu mà tôi nghĩ mình đã có đối với họ cũng như tình cảm mà họ dành cho tôi đều dần tan biến. Tôi cũng là người hiểu biết, thậm chí tôi còn điều hành cả một doanh nghiệp thành công, thế nhưng tôi lại không thể nào hiểu nổi điều này. - Anh đã lập gia đình bao lâu rồi? - Tôi hỏi. - Cuộc hôn nhân đầu tiên của tôi kéo dài khoảng mười năm. Lần thứ hai khoảng ba năm. Còn lần cuối cùng là gần sáu năm. - Vậy với anh, tình yêu kết thúc ngay sau khi kết hôn hay phai nhạt dần theo thời gian? - Tôi hỏi. - Cuộc hôn nhân thứ hai của tôi gặp vấn đề ngay từ những ngày đầu tiên. Thật tình tôi cũng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra nữa. Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi thực sự yêu nhau; thế nhưng tuần trăng mật lại như một cơn ác mộng, và chẳng bao giờ chúng tôi có thể hàn gắn được vết rạn nứt đó. Chúng tôi bị cuốn vào nhau tựa một cơn lốc và chỉ sau sáu tháng quen biết, cả hai quyết định kết hôn. Một tình yêu cuồng nhiệt! Nhưng ngay sau đám cưới, tình yêu đó đã nhanh chóng biến thành một cuộc chiến. Còn với cuộc hôn nhân đầu tiên, ít ra chúng tôi cũng từng có ba bốn năm hạnh phúc bên nhau trước khi đứa con đầu lòng ra đời. Sinh con xong, vợ tôi dường như chỉ còn biết đến mỗi đứa bé. Tôi cảm thấy mình bị bỏ quên. Cứ như thể mục tiêu duy nhất trên đời của cô ấy là có một đứa con, và chấm hết. Cô ấy chẳng còn thiết tha gì đến tôi nữa. - Thế anh có nói cho cô ấy biết điều đó không? - Tôi hỏi. - Ồ, có chứ. Nhưng cô ấy bảo tôi khùng. Cô ấy còn cho rằng, tôi chẳng hề thông cảm đến nỗi khổ của người vú nuôi 24/24 như cô ấy. Cô ấy nói tôi cần phải quan tâm, giúp đỡ cô ấy nhiều hơn mới phải. Tôi cũng đã cố, nhưng dường như cũng chẳng ích gì. Càng ngày, chúng tôi càng thêm xa cách. Và sau một thời gian thì tình yêu chết thật. Và cả hai chúng tôi đều đồng ý chia tay. Còn cuộc hôn nhân cuối cùng ư? Tôi đã nghĩ nó sẽ khác hai lần trước. Lúc đó, tôi đã sống một mình được ba năm. Và chúng tôi cũng đã hẹn hò gần hai năm trời. Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi hẳn phải biết mình đang làm gì, thậm chí tôi còn nghĩ đó là lần đầu tiên tôi thực sự hiểu được ý nghĩa của việc yêu thương một ai đó. Và tôi cũng đoán chắc rằng cô ấy yêu mình. Sau khi cưới nhau, tôi vẫn trước sau như một, luôn thể hiện tình cảm của mình với vợ. Tôi khen cô ấy đẹp, dành cho cô ấy những lời yêu thương, và rằng tôi rất tự hào khi được làm chồng cô ấy… Thế nhưng chỉ vài tháng sau đó, vợ tôi bắt đầu phàn nàn. Bắt đầu từ những việc hết sức cỏn con như tôi không chịu đổ rác hoặc vứt quần áo lung tung. Sau đó, cô ấy tấn công sang tính cách của tôi, nào là chẳng thể tin tưởng tôi được, nào là tôi không chung thủy. Có thể nói là cô ấy bỗng nhiên biến thành một người hết sức tiêu cực - trái ngược hoàn toàn với những gì tôi biết về cô ấy trước đây. Khi chưa lấy nhau, chưa bao giờ cô ấy phàn nàn điều gì. Cái gì tôi làm cũng là số một. Nhưng cưới nhau rồi thì dường như trong mắt cô ấy tôi bỗng trở thành một anh chàng vô tích sự. Quả thật, tôi chẳng biết chuyện gì đã xảy ra nữa. Cuối cùng, tình yêu tôi dành cho cô ấy cũng lụi tàn, và tôi bắt đầu cảm thấy bực bội với cô ấy. Rõ ràng, cô ấy không yêu tôi. Chúng tôi nhận thấy việc sống chung chẳng còn ý nghĩa gì, thế nên chúng tôi đã chia tay". Gary Chapman nói: "Tất cả những chuyện xảy ra khiến tôi luôn mang trong mình câu hỏi rằng điều gì đã xảy ra với tình yêu sau ngày cưới? Liệu mọi người có gặp phải những chuyện tương tự như tôi hay không? Liệu đó có phải là lý do khiến rất nhiều cặp vợ chồng ly hôn? Tôi không tin nổi mình lại ly hôn đến ba lần. Còn những cặp vợ chồng bền vững thì sao? Phải chăng là nhờ họ biết chấp nhận một đời sống hôn nhân không tình yêu, hay vì tình yêu vẫn ngự trị trong họ? Nếu quả như thế thì làm thế nào họ có được may mắn đó? " Những câu hỏi mà người đàn ông ấy đưa ra cũng chính là điều mà hàng triệu cặp vợ chồng - hoặc vẫn còn chung sống, hoặc đã ly hôn - băn khoăn, tìm hiểu. Một số người tìm đến bạn bè, một số khác thì nhờ chuyên viên tư vấn hoặc quanh quẩn tự hỏi bản thân. Câu trả lời đôi khi thật khó hiểu bởi nó liên quan đến nhiều thuật ngữ tâm lý, hoặc cũng có khi nó lại được diễn giải qua các câu chuyện dân gian hay lời pha trò hóm hỉnh. Dù rằng tất cả cũng nói lên phần nào sự thật nhưng thực tế chúng không mang lại hiệu quả như mong muốn. Ước muốn có được một cuộc hôn nhân lãng mạn cũng như làm thế nào giữ mãi ngọn lửa tình yêu sau ngày cưới là điều hết sức chính đáng và trở thành vấn đề quan tâm của hầu hết mọi người. Ngày nay, báo chí, sách vở cũng như các phương tiện thông tin đại chúng khác đều tập trung khai thác mảng đề tài này. Thế nhưng trước một lượng thông tin khổng lồ như vậy, không phải cặp vợ chồng nào cũng tìm ra được bí quyết gìn giữ tình yêu cho mình. Hàng ngày, vẫn có vô số cặp vợ chồng tham dự các buổi trò chuyện về hôn nhân gia đình, được hướng dẫn cụ thể những điều cần làm để duy trì ngọn lửa tình yêu; nhưng khi về đến nhà, họ vẫn không thể nào phát huy và ứng dụng tốt những gì đã được học. Vậy, nguyên nhân của vấn đề nằm ở đâu? Đó là: Mỗi người có một cách biểu đạt tình yêu, hay còn gọi là ngôn ngữ tình yêu khác nhau. Trong giao tiếp, bạn không thể dùng tiếng Anh để truyền thông điệp đến một người không hiểu tiếng Anh; và nói chung, việc không sử dụng cùng một ngôn ngữ sẽ làm nảy sinh vô số khó khăn trong giao tiếp. Do đó, để có thể giao tiếp hiệu quả và không gặp phải những rào cản về sự khác biệt văn hóa, chúng ta cần học ngôn ngữ của đối tượng mình muốn giao tiếp. Trong tình yêu cũng vậy. Rất có thể, ngôn ngữ yêu thương của bạn và bạn đời là hoàn toàn khác nhau. Điều này cũng giống như người đàn ông trong câu chuyện trên, anh đã sử dụng những lời đẹp nhất để thể hiện tình yêu của mình với người vợ thứ ba nhưng kết quả nhận được lại không như anh mong muốn. Rõ ràng, tình yêu của anh ấy chân thành, nhưng có thể người vợ lại mong muốn anh phải bộc lộ tình yêu qua hành động cụ thể trong đời sống chứ không chỉ bằng những lời nói tốt đẹp. Do đó, chỉ chân thành không thôi chưa đủ. Chúng ta còn cần phải sẵn lòng học lấy ngôn ngữ tình yêu của người bạn đời nếu muốn đạt được hiệu quả mong muốn trong giao tiếp với người mình yêu. Sau ba mươi năm làm công tác tư vấn hôn nhân, tôi đúc kết được 5 ngôn ngữ tình yêu cơ bản – đó là năm cách để biểu đạt và thấu hiểu cảm xúc trong tình yêu. Có thể, bạn sẽ bắt gặp đâu đó những bài viết kiểu như: “10 Cách để thể hiện tình yêu với vợ”, “20 Bí quyết để giữ chồng ở nhà” hoặc “365 Cách thể hiện tình yêu trong hôn nhân”… Theo tôi, tất cả những cách ấy chỉ gói gọn trong 5 ngôn ngữ tình yêu cơ bản. Tuy nhiên, mức độ áp dụng của mỗi người lại khác nhau. Mọi giới hạn trong việc biểu đạt tình yêu của bạn với người bạn đời là do sự giới hạn trong sức tưởng tượng của bạn mà thôi. Điều quan trọng nhất cần nhớù là, hãy nói bằng ngôn ngữ tình yêu của người bạn đời chứ không phải của bản thân bạn. Ngay từ khi còn nhỏ, trong mỗi đứa trẻ đã hình thành những chuẩn mực tình cảm đặc trưng. Chẳng hạn, có những đứa trẻ sớm có lòng tự trọng cao, lại có những đứa sớm có tính tự ti, một số khác lại luôn bị ám ảnh bởi cảm giác bất an, trong khi có những đứa may mắn hơn lại lớn lên trong cảm giác bình yên. Tương tự như vậy, có những đứa trẻ được nuôi dưỡng trong sự yêu thương, lại có những trẻ khác lớn lên trong sự hắt hủi, ruồng bỏ và khinh thường. Với những đứa trẻ may mắn lớn lên trong yêu thương, chúng sẽ sớm phát triển ngôn ngữ tình yêu một cách trọn vẹn. Trong khi đó, những đứa trẻ kém may mắn cũng sẽ phát triển ngôn ngữ tình yêu của riêng chúng, nhưng lại bị bóp méo, sai lệnh đi giống như những đứa trẻ học kém ở trường vẫn thường dùng sai văn phạm và từ vựng. Điều đó không có nghĩa là những đứa trẻ học kém không thể giao tiếp tốt, nhưng chúng sẽ phải nỗ lực nhiều hơn những đứa trẻ khác. Cũng tương tự như thế, những người có ngôn ngữ tình yêu bị bóp méo sẽ phải gắng sức nhiều hơn so với những ai may mắn được lớn lên trong một gia đình tràn đầy tình yêu thương. Hiếm khi vợ chồng có chung một ngôn ngữ tình yêu. Chúng ta thường có xu hướng sử dụng ngôn ngữ tình yêu của mình để rồi ngạc nhiên không biết vì sao đối phương không hiểu được những gì mình thể hiện. Điều này chẳng khác gì người nói một đằng, người hiểu một nẻo. Đó là lý do vì sao tôi đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết để biên soạn cuốn sách này. Hôn nhân không có nghĩa là con đường chấm dứt tình yêu, nhưng để nuôi dưỡng ngọn lửa yêu thương, mỗi người chúng ta cần phải nỗ lực tìm hiểu ngôn ngữ tình yêu của nhau. Một khi hiểu và học được cách sử dụng ngôn ngữ tình yêu của bạn đời, tôi tin rằng đó cũng là lúc bạn nắm giữ trong tay chìa khóa của một cuộc hôn nhân hạnh phúc, bền lâu. "Hãy học lấy ngôn ngữ yêu thương của bạn đời để có thể giao tiếp hiệu quả trong đời sống vợ chồng", Gary Chapman nhấn mạnh.Ngược Dòng Hương Giang
Sáng tác:Đức Trịnh - Thể hiện:Vân Khánh
Nặng Tình Cố Hương
Sáng tác:Nguyễn Tất Tùng - Thể hiện:Thiên Bảo
Cao Duy Sơn trò chuyện về 'Ngôi nhà xưa bên suối'
Gặt hái khá nhiều thành công, song Cao Duy Sơn chưa phải là cái tên nổi bật trên văn đàn. Chỉ đến khi “Ngôi nhà xưa bên suối” đoạt Giải Văn học Đông Nam Á 2009, người ta mới tìm đến ông cũng như mảnh đất Cô Sầu sống chết vẫn là “mạch nước ngầm” vô tận cho sự nghiệp sáng tác của nhà văn miền ngược này.
Cao Duy Sơn thú nhận nghệ thuật “mã hóa” ngôn từ và cách xây dựng bố cục chính là điểm mạnh làm nên thành công trong các tác phẩm của mình. Từ Đàn Trời, Người lang thang, Hoa Mận Đỏ đếnNgôi nhà xưa bên suối và sắp tới sẽ làChòm ba nhà mà theo ông đây là tác phẩm sẽ có “chuyện”…  
Nhớ về “Ngôi nhà xưa bên suối”
- Ông có cảm giác thế nào khi đoạt Giải thưởng văn học Đông Nam Á 2009?
- Xúc động, hạnh phúc và vinh dự, tôi là nhân vật thứ 13 được may mắn ghi lại những cảm xúc ấy để đánh dấu một “mốc son” tươi rói trong nghiệp văn chương, cho dù đó không phải là tiêu chí đầu tiên mỗi khi Cao Duy Sơn chắp bút.
- Ấn tượng của ông trong chuyến đi lần này?
- Một điều khá thú vị là chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ đến từ các quốc gia trong khu vực đã được Hoàng Thái tử Thái Lan Maha Vajiralongkorn đích thân trao giải với những chiếc đĩa bạc ghi nhận thành tích.
Hơn nữa, tôi cũng được giao lưu, chia sẻ niềm vui lớn với kiều bào Việt Nam tại Thái Lan - những người xa xứ từ lâu và luôn mong mỏi nhớ về những nét đẹp của văn hóa dân tộc sau ngần ấy đổi thay.
Nhà văn Cao Duy Sơn nhận giải thưởng Văn học Đông Nam Á. Ảnh: nhân vật cunng cấp.
Nhà văn Cao Duy Sơn (trái) nhận giải thưởng Văn học Đông Nam Á. Ảnh:Nhân vật cung cấp.
- Ông nghĩ sao khi đây có thể là cơ hội để đưa “Ngôi nhà xưa bên suối” ra khơi xa?
- Không phải phô trương nhưng quả thực người ta đã tìm đến Ngôi nhà xưa trước khi tôi có ý định “mời” họ đến. Nhiều người bạn đã nắm chặt tay tôi, khoác vai tôi tỏ ra thân thiết từ bao giờ rồi tỉ mẩn hỏi về cái xứ sở “U tì quốc” Cô Sầu, về điệu lượn then, về chợ tình, về khúc hát Khai vài xuân… Thật lòng, tôi mừng vì điều đó hơn tất thảy!
- Người dân Cô Sầu đã đến thăm “Ngôi nhà xưa bên suối” của ông?
- Tất nhiên rồi. Họ hào hứng và thích thú lắm. Ngôi nhà xưa bên suối là món quà lớn của tôi dành tặng cho bất cứ ai ở Cô Sầu. Nó có thể trở thành những câu chuyện hàn huyên của dân ở xứ sở “U tì quốc” này, cũng có thể là những nỗi buồn phảng phất của ai đó khi nhìn lại văn hóa mang đậm bản sắc riêng của người dân Cô Sầu (điệu hát khai vài xuân, trang phục, ngôn ngữ…) đang mòn dần theo thời gian mà mãi vẫn chưa tìm thấy “con đường cải tiến”.
Gõ cửa “Chòm ba nhà”
- Bao giờ tác phẩm mới -“Chòm 3 nhà” - của ông hé lộ?
- Một vài người thân của tôi đã biết đến nó. Đó là cuốn tiểu thuyết dài gần 500 trang với 50 chương hồi, tập trung nói về đề tài chiến tranh, về 6 người bạn cùng San (Tôi - nhân vật chính của truyện) lớn lên ở xóm Chòm ba nhà, về tuổi thơ non nớt đã phải chứng kiến sự tàn khốc của cuộc chiến, về những con người sinh ra không kịp lớn, về sự sống "vội"… Chòm ba nhà hội tụ tất cả tâm lực của tôi trong suốt 3 năm qua.
- Viết về chiến tranh và đụng đến nhiều chuyện tế nhị, ông có linh cảm gì về sự ra đời của “Chòm 3 nhà”?
- Về đề tài chiến tranh, về sinh mạng, về nhân tình thế thái… tất nhiên sẽ nhạy cảm, có thể “đụng chạm” là đằng khác. Cơ bản người đọc đánh giá mức độ nhạy cảm đến đâu? Có chấp nhận được hay không mà thôi. Thế nên Chòm ba nhà rất dễ có “chuyện”…
 - Từ “Chòm 3 nhà” ông muốn ám chỉ điều gì?
- “Chòm ba nhà” ư, ấy là nơi ở của nhóm cư dân chưa hội đủ thành một xóm. Ở đó có những con người thuộc các thành phần dân tộc khác nhau. Suốt bao nhiêu năm họ đã sống thân ái và đoàn kết. Nhưng rồi có một ngày, không hiểu sao người ở chòm bỗng trở nên thay đổi, họ thận trọng và sống khép mình, rồi có lúc không tin nhau nữa.
Vì lý do gì họ không thể lý giải? Không còn thời gian để tìm hiểu, họ lần lượt rời bỏ chòm ra đi, tan mất khắp phương trời. Ngày trở về chỉ còn lại hai người. Họ đứng trên nền đất cát bị bỏ hoang với tất cả sự nuối tiếc và thương nhớ quá khứ. Một quá khứ êm đềm và thanh bình đã rời bỏ họ ra đi, hay mọi người đã rời bỏ quá khứ của chính mình? Điều đó đã khiến họ trở nên hối tiếc và ân hận? Họ đứng đó lặng lẽ và thương nhớ những ngày xưa, những ngày đẹp nhất của dân xóm ba nhà chỉ còn đọng lại trong dư âm ký ức.
Sự tham lam của chiến tranh sẽ chỉ mang lại sự tàn khốc và bất hạnh. Hãy biết quý trọng lấy từng ngày sống trên thế gian này. Đối với nhau cho thật tử tế. Hãy trân trọng và chắp cánh cho những ước mơ của tuổi thần tiên. Đó là những tháng ngày đẹp nhất của con người một đi không bao giờ trở lại. Điều đó sẽ mang lại sự tin cậy và thanh bình.
Thùy Dương thực hiện
Mưa Thơm Phố Huế
Sáng tác:Trương Quang Tuấn - Thể hiện:Quang Linh
Đi Tìm Nắng Hạ
Sáng tác:Nguyễn Tất Tùng - Thể hiện:Khánh Duy
Chiều Mưa Vỹ Dạ
Sáng tác: Lê Triều Quang- Thể hiện:Vân Khánh
Người Tình Và Huế Xưa
Sáng tác:Phố Thu - Thể hiện:Thiên Bảo
Ru Nửa Vầng Trăng
Sáng tác:Huy Phương- Thể hiện:Khánh Duy
Chiều Sông Hương
Sáng tác:Vĩnh Phúc - Thể hiện:Vân Khánh
Chiều Mưa Xứ Huế
Sáng tác:Ngọc Sơn - Thể hiện:Thiên Bảo
Giữa Mạc Tư Khoa Nghe Câu Hò Xứ Nghệ
Sáng tác:Trần Hoàn - Thể hiện:Ngọc Sơn
Chuyện Tình Sông Hương
Sáng tác:Đinh Trầm Ca - Thể hiện:Khánh Duy
Cao Hành Kiện không đọc văn học Trung Quốc
Tự nhận mình là một công dân thế giới, từ khi rời khỏi quê hương, tiểu thuyết gia đoạt giải Nobel 2000 vẫn đều đặn viết, trước hết và trên hết là cho bản thân. Văn chương, với ông, phải vượt lên khỏi biên giới quốc gia và lãnh thổ. Dưới đây là những chia sẻ của nhà văn Cao Hành Kiện.
- Trong diễn từ Nobel, ông trình bày rất rõ quan điểm của mình về vai trò và trách nhiệm của nhà văn. Quan điểm này rõ ràng đã dẫn đường cho những nỗ lực sáng tạo của ông trong các lĩnh vực nghệ thuật khác như hội họa và phim ảnh. Ông có thể vui lòng nhắc lại một lần nữa?
- Tôi không cho rằng văn học hoặc các sáng tạo nghệ thuật lại cần phải dính líu đến chính trị. Một nghệ sĩ cần phải đứng cao hơn những ràng buộc chính trị và sự cám dỗ của thị trường để đạt được tự do và độc lập trong tư tưởng. Nhà văn không phải là chiến binh, nhiệm vụ của văn học không phải là phê phán hay cải tạo xã hội. Đồng ý là mỗi nhà văn đều có quan điểm chính trị riêng, nhưng quan điểm của họ không nhất thiết phải tuyên bố trong tác phẩm. Tôi tin rằng, các nhà văn chỉ cần thành thực với chính mình khi viết về với những vấn đề cá nhân nhỏ nhoi và mong manh. Mỗi con người thường phải đối diện với rất nhiều sức ép trong xã hội. Họ sẽ bị dìm trong đám đông hỗn tạp hoặc sẽ chế ngự được sự lấn át của các thế lực. Thật là một thử thách dễ khiến người ta nản chí khi phải thể hiện lập trường của mình trong những hoàn cảnh như vậy. Mỗi cá nhân khẳng định sự tồn tại của mình qua những thử thách từ môi trường sống. Nhìn từ góc độ này, có thể thấy, văn học không phải là vũ khí để phê phán mà là tấm vé chứng thực sự tồn tại. Mỗi nhà văn là một chứng nhân cho thời đại anh ta sống và văn học trở thành bằng chứng mạnh mẽ, sống động cho sự tồn tại của loài người. Văn học thật hơn lịch sử - thứ được viết ra dưới ảnh hưởng của quyền lực chính trị.
Nhà văn Cao Hành Kiện.
Nhà văn Cao Hành Kiện.
 - Ông từng rất tự hào khi phải rút bộ phim "Silhouette, sinon l'ombre" của mình khỏi Liên hoan phim Cannes vì Ban giám khảo không biết xếp nó vào hạng mục nào. Tại sao họ lại gặp phải khó khăn khi phân loại phim của ông như thế?
- Tôi rất thích làm phim. Cuối cùng, tôi cũng đã làm được một bộ phim. Nó không được thị trường điện ảnh hiện nay chấp nhận. Nhưng đó chính xác là loại phim mà tôi muốn sản xuất. Nó không phải là phim điện ảnh cũng không phải phim tài liệu. Bạn có thể gọi nó là một bài thơ điện ảnh - bài thơ được viết bằng kỹ thuật làm phim. Phim là nghệ thuật sử dụng hình ảnh với ngôn ngữ và âm thanh đi kèm nhằm giải thích hoặc làm nổi bật hình ảnh. Trong phim của tôi, tôi xử lý hình ảnh, ngôn ngữ và âm thanh như 3 thành tố riêng biệt, có thể tồn tại độc lập với nhau. Mỗi thành tố có lớp từ vựng riêng. Sự tương phản và so sánh được xây dựng trên quan điểm nền tảng đó, như vậy, lối trần thuật truyền thống hoàn toàn bị phá vỡ. Các nhà tổ chức Liên hoan phim Cannes cho rằng nó quá mới/ lập dị/ lạ. Nhưng tôi không nghĩ thế. Tôi vẫn tiếp tục cách làm này trong bộ phim sắp tới. Tôi sẽ còn mở rộng và phát triển hơn hình thức này. À, bộ phim sẽ được công chiếu tại Liên hoan nghệ thuật Singapore 2008 (22/5 - 22/6), ở đó, người ta sẽ nghĩ ra một hạng mục thích hợp cho nó.
- Hiện tại, ông dành phần lớn thời gian của mình cho hội họa, làm phim và viết kịch. Ông có định viết thêm tiểu thuyết nào trong tương lai gần? Từ sau "Linh Sơn" và "Kinh thánh cho một người", ông chỉ viết được một số truyện ngắn - gần đây được xuất bản bằng tiếng Anh trong tuyển tập "Buying a Fishing rod for my grandfather" (Mua một cần câu cho ông tôi). Nếu viết tiểu thuyết, ông sẽ viết bằng tiếng Trung hay tiếng Pháp? Tôi nhớ Milan Kundera từng nói, dù viết tiểu luận, thậm chí là cả kịch bằng tiếng Pháp, nhưng ông chỉ viết được tiểu thuyết bằng tiếng Czech. Tất nhiên, chúng ta đều biết là sau đó ông đã thay đổi quan điểm và bắt đầu sáng tác tiểu thuyết bằng tiếng Pháp. Phải chăng, so với các thể loại khác, tiểu thuyết có những đòi hỏi riêng trong việc nó được sáng tác bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay bằng ngoại ngữ. Ý kiến của ông thế nào?
- Tôi đã lên kế hoạch viết cuốn tiểu thuyết mới nhưng rồi đành phải bỏ vì lý do sức khỏe. Viết tiểu thuyết rất mất sức, một phần vì tiếng Pháp không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi. Khi làm thơ hay viết kịch, tôi có thể dành nhiều thời gian để tìm ra một từ chính xác, vì hai thể loại này có dung lượng không quá dài. Nhưng viết tiểu thuyết mà cũng làm như thế thì rất mất thời gian. Bên cạnh đó, tôi là người đặc biệt thận trọng khi sử dụng từ ngữ. Tiểu thuyết, với tôi không đơn giản chỉ là kể một câu chuyện. Tôi không còn trẻ nữa và tôi cảm thấy việc mất thời gian chọn từ, lựa chữ chính xác để viết tiểu thuyết như cách tôi đã làm với kịch hay thơ là một đòi hỏi quá lớn.
Cao Hành Kiện nhận giải Nobel năm 2000.
Cao Hành Kiện nhận giải Nobel năm 2000.
 - Sau buổi đọc vở kịch mới nhất của ông "Balade Nocturne" (viết bằng tiếng Pháp) tại Đại học Notre Dame, ông đã được hỏi rằng: có sự khác biệt nào khi ông viết vở kịch này bằng tiếng Trung và tiếng Pháp. Ông đã trả lời như thế nào?
Balade Nocturne là vở kịch thứ năm tôi viết bằng tiếng Pháp. Tôi thường viết thêm một bản tiếng Trung sau khi có bản tiếng Pháp nhưng tôi không có thời gian giới thiệu nó trong chuyến thăm Đại học Notre Dame. Tiếng Trung và tiếng Pháp, chắc chắn là hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau, đòi hỏi quá trình tư duy khác nhau. Dịch thuật, đặc biệt dịch văn học là công việc vô cùng khó khăn. Quả là một thách thức lớn khi dịch một tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác một cách chính xác, trung thực và sáng tạo. Với hai phiên bản của vở kịch này, tôi không chỉ làm cái việc dịch thuần túy, đặc biệt là khi tôi không tìm thấy trong tiếng Trung những cách diễn đạt tương đương. Thay vào đó, tôi viết lại thành một vở kịch tiếng Trung. Vì thế, bản tiếng Trung không chỉ là là một bản dịch đơn thuần.
- Có thể đúng có thể sai nhưng phần lớn người Mỹ - những người biết tác phẩm của ông - vẫn coi ông là một tiểu thuyết gia Trung Quốc, chứ không phải là nhà viết kịch Pháp. Điều chắc chắn đúng, theo tôi, là ông sinh ra ở Trung Quốc, lớn lên ở Trung Quốc, viết bằng tiếng Trung Quốc, nên hẳn nhiên, ông là nhà văn Trung Quốc. Dường như, quốc tịch đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thời đại toàn cầu hóa. Ông nghĩ sao về vấn đề này và ông thích được nhìn nhận như thế nào?
- Quốc tịch chẳng có ý nghĩa gì cả. Với nhà văn, tác phẩm là thứ quan trọng nhất mà độc giả quan tâm. Tôi coi mình là mộtcông dân thế giới. Từ khi rời khỏi Trung Quốc, tôi vẫn luôn luôn viết, đầu tiên và trên hết là cho bản thân mình. Độc giả của tôi cũng không bị giới hạn bởi biên giới lãnh thổ. Tôi hài lòng vì nhận được phản hồi của độc giả từ nhiều quốc gia khác nhau. Tôi coi đó là sự chứng thực cho thành tựu sáng tạo của mình.
- Ông có thường đọc tiểu thuyết của các nhà văn đương đại Trung Quốc không? Ông có quan tâm tới các hoạt động văn học diễn ra tại Trung Quốc, Hong Kong, Đài Loan?
- Tôi không đọc bất cứ tác phẩm đương đại nào của Trung Quốc suốt hàng chục năm nay, từ khi tôi không còn mối liên hệ nào với Trung Quốc đại lục - nơi tác phẩm của tôi vẫn bị cấm xuất bản. Tôi biết nhiều nhà văn nhà thơ Đài Loan hơn và có kết bạn với một vài trong số họ. Nên tôi có đọc thơ đương đại Đài Loan. Tôi cũng có biết một số người làm trong lĩnh vực sân khấu ở Hong Kong. Một cách chủ quan, tôi cho rằng, thơ ca đương đại Đài Loan và kịch Hong Kong rất đáng được chúng ta quan tâm. Tôi cũng không thường xuyên đọc các tiểu thuyết mới của Pháp vì tôi phải dành phần lớn thời gian cho tác phẩm và các công việc khác của mình. Tôi không có nhiều thời gian để đọc. Khi đọc, tôi dành nhiều ưu tiên cho loại sách nghiên cứu và triết học.
- Hiện tại, ông đang làm gì?
- Tôi đang làm một tuyển tập tiểu luận về tiểu thuyết, kịch và phim của mình. Công trình này phải đến cuối năm mới xong.

Vương Linh - Chàng trai nam tính nhất Vietnam Idol

Khoan bàn đến giọng hát, chỉ cần nhìn thấy sự đầu tư của Vương Linh dành cho trang phục và mái tóc qua từng vòng thi cũng đủ làm cho khán giả thích thú về sự chuẩn bị khá chu đáo của anh.
>> Đêm pop rock ấn tượng của Vietnam Idol
>> Đức Anh Hugo màu mè trên sân khấu Idol

Vương Linh - Chàng trai nam tính nhất của Vietnam Idol
Đinh Vương Linh

- Tại sao bạn phải khẳng định bạn là ai với nickname khá kêu "Mr.Đ.V.L"?
- Thật ra đây không phải là sự khẳng định gì cả mà chỉ là tình cờ mình lấy những chữ cái đầu tiên của tên mình ghép lại mà thôi. Với nickname như thế mà được cho là khá kêu thì mình cũng thấy hãnh diện lắm chứ (cười lớn).
- Tốt nghiệp Khoa Thanh nhạc trường Nghệ thuật Hà Nội, tại sao bạn không hoạt động ngoài Bắc mà lại khăn gói vào Nam?
- Vì Linh muốn được học hỏi nhiều hơn ở đất Sài thành - nơi mà thị trương âm nhạc phát triển và sôi động hơn. Đồng thời mình cũng muốn bản thân có thêm sự thử thách và tự lập hơn, nên mình đã quyết định khăn gói vào Nam.
- Bạn có gặp phải khó khăn gì những ngày đầu ở Sài gòn không?
- Lúc mới vào Nam, tôi đã khá buồn bã và chênh vênh. Nhưng rồi cuộc sống một mình, không bạn bè, người thân giữa đất Sài Gòn trong thời gian đầu đã tôi rèn cho tôi sự cứng cỏi, và mạnh mẽ hơn rất nhiều. Rồi tình cờ tôi quen biết một số người bạn cùng chí hướng, nhóm nhạc 39oC đã ra đời. Hai năm đi hát, nhóm nhạc tan rã vì mỗi người đã chọn cho mình một con đường khác. Riêng tôi thì vẫn quyết định ở lại với âm nhạc. Tìm được công việc tại một phòng thu, thình thoảng vẫn đi hát để thỏa đam mê. Càng ngày công việc càng chiếm nhiều thời gian, tôi đành tạm ngưng đi hát để tập trung cho công việc thu âm.
- Nếu tôi nhớ không nhầm thì Linh đã từng tham gia Vietnam Idol 2008 và loạt vào top 40 của cuộc thi. Tại sao bạn lại quyết định thử sức một lần nữa?
- Được sự động viên, ủng hộ của gia đình va bạn bè nên mình đã quyết định thử sức một lần nữa.
- Vậy bạn tìm kiếm gì ở cuộc thi này, sự nổi tiếng, trở thành ca sĩ hàng sao được khán giả tung hô, những điều mà nhóm 39oC đã không giúp được bạn?
- Mình đến với cuộc thi này không phải vì sự nổi tiếng hay trở thành ca sĩ hàng sao được khán giả tung hô mà chỉ vì niềm khát khao âm nhạc và mình muốn được thể hiện hết mình ở sân chơi này.

Vương Linh - Chàng trai nam tính nhất của Vietnam Idol

- Bạn có từng nghĩ đến việc mình thôi hát, kiếm một công việc nào đó an nhàn và sống cuộc sống bình thường như bao người khác?
- Qua những lần thất bại trong các cuộc thi, mình cảm thấy chán nản vì nghĩ rằng nghề ca hát không hợp với mình nên cũng có ý định kiếm một công việc nào đó để làm. Nhưng mình vẫn không làm được điều đó vì ca hát đã thấm sâu vào tim mình rồi (cười).
- Ngoài đời bạn là một chàng trai khá hiền lành và còn khá lúng túng khi nói chuyện, không như những lúc bạn hát, rất mạnh mẽ và lạnh lùng? Bạn nghĩ sao về nhận xét này?
- Mình thấy điều đó là rất đúng! Đôi khi ngoài đời mình còn hơi nhút nhát là đằng khác.
- Bạn và Lều Phương Anh không chênh lệch tuổi tác nhiều cho lắm, bạn nghĩ sao về cô gái này?
- Mình cảm thấy Phương Anh là một cô gái mạnh mẽ và đầy táo bạo.
- Là thí sinh lớn tuổi nhất của cuộc thi, ắt hẳn đó là rào cản của bạn?
- Mình không nghĩ như vậy, mình cho rằng trong nghệ thuật không có sự phân biệt tuổi tác, chủ yếu là khả năng đến đâu để có thể chinh phục được khán giả mà thôi.
- Bạn có thể kể những kỷ niệm khi tham gia cuộc thi không?
- Khi tham gia cuộc thi, mình cũng được khán giả biết tới. Có một lần ngồi cà phê thì có hai bé gái xin chụp hình, sau khi chụp xong thì có một bé nói rất ngây ngô: "Ủa, sao anh cười xấu thế”. Lúc đó mình cũng hơi ngượng một chút nhưng lại thấy rất vui vì mình cảm thấy giới trẻ bây giờ rất thẳng thắn với thần tượng của mình. Một kỷ niệm rất vui đúng không?

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'

"Không ai thành công một mình" là chủ đề buổi trao đổi rất sôi nổi và thú vị giữa diễn giả Quách Tuấn Khanh với các tân sinh viên ĐH KHXH & NV TP HCM.
Cuộc trò chuyện hôm 28/10 được dành cho "lính mới" của giảng đường đại học, nhưng rất nhiều sinh viên "đàn anh đàn chị" cùng hồ hởi tới nghe khiến hội trường 500 chỗ của ĐH KHXH & NV quá tải. Anh Quách Tuấn Khanh đóng vai trò người truyền lửa, truyền kinh nghiệm và những lời khuyên bổ ích nhằm giúp các sinh viên bớt hoang mang ở môi trường mới, đồng thời đặt mục tiêu học tập và phấn đấu. Không còn sống hoàn toàn trong vòng tay của bố mẹ, rất nhiều sinh viên phải cân nhắc sống ở đâu, “share” phòng với ai, ăn món gì, đọc sách gì, muốn làm gì trong tương lai. Quãng thời gian học tập ở trường đại học có ý nghĩa rất lớn trong việc định hình tính cách, bởi đây là giai đoạn các bạn trẻ được độc lập đưa ra nhiều quyết định, từ đó quyết định những tính cách mà họ sẽ mang theo cả cuộc đời.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
Các sinh viên ĐH KHXH & NV TP HCM hào hứng trong cuộc trao đổi với diễn giả Quách Tuấn Khanh.

“Hãy thay đổi từ ngày hôm nay”
Cũng từng trải qua thời sinh viên, anh Quách Tuấn Khanh cho rằng không nên đặt nặng vấn đề thi cử hay chỉ lăm le ý định chỉ cần vượt qua các kỳ thi là hoàn thành trách nhiệm. Anh hài hước: “Thi là chuyện của cả đời. Không chỉ phải thi khi đi học, mà bất kỳ chuyện gì cũng tiềm ẩn một vụ thi thố. Ngỏ lời với bạn gái cũng là một cuộc thi, bị người yêu ‘đá’ cũng là thi, đi phỏng vấn xin việc cũng là đi thi, bởi tất cả đều là đỗ - trượt”.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
Diễn giả Quách Tuấn Khanh nhiệt tình truyền lửa cho sinh viên.

Cách học để nhớ bài nhất là học nhóm cùng bạn bè ngay sau khi buổi học kết thúc. Hãy kéo một nhóm bạn ra một góc, sắp xếp lại bài giảng của thầy cô, trình bày lại một cách logic và trao đổi, thảo luận. Đừng viện cớ là không có thời gian nhé, vì chắc chắn bạn có dư thời gian tụ tập uống cà phê, lướt web, chat hoặc nằm ườn trên giường và kêu mệt vì bị nghe thụ động bài giảng. Cách tiếp cận bài học một cách chủ động - suy nghĩ, sắp xếp, trình bày - sẽ khiến bạn hưng phấn rất nhiều.
Mở rộng lòng mình, đón nhận thành công của người khác như thành công của mình một cách không ganh đua hằn học cũng là một bí quyết để trở thành người thành đạt, thậm chí có thể trở nên vĩ đại. Bạn có biết bao nhiêu người đã góp phần xây nên tháp Eiffel không? Hẳn phải hàng nghìn người chứ nhỉ. Vậy có bất công không khi chỉ có kiến trúc sư Eiffel được gắn tên lên ngọn tháp ấy? Không đâu, vì Eiffel biết cộng tác với hàng nghìn người khác để làm nên một kỳ quan, chứ không phải một mình kỳ cạch “cõng” thép xây tháp. Khi hiểu rằng phải cộng sinh để tồn tại, con người có thể chung sống chứ không nhất thiết triệt tiêu nhau, chúng ta sẽ thấy cuộc sống dễ dàng và lạc quan hơn, bởi không phải “canh me” kẻ thù. Cái “mất” của ngày hôm nay tiềm ẩn cái “được” của ngày mai, là đầu tư cho tương lai và hứa hẹn cho bạn nhiều thành quả lớn hơn.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
"Hãy nắm chặt tay vì chúng ta cần nhau".

“Đừng nhầm lẫn tình yêu và cơn mê”
Trước thắc mắc của một sinh viên làm sao để cân bằng tình yêu và học tập khi còn sinh viên, anh Khanh khẳng định chắc nịch, tình yêu là động lực cho con người phấn đấu nhiều hơn, trở nên giỏi giang và thành đạt hơn. Chỉ những cơn mê mù quáng mới khiến ta học hành sa sút. Nếu tình cảm không khiến con người trở nên tốt đẹp hơn, không có gì dành cho nhau ngoài vài lời yêu trên môi thì đó hẳn không phải là tình yêu. Thời sinh viên, diễn giả Quách Tuấn Khanh đã yêu, luôn giành điểm cao nhất lớp để nổi bật trong mắt người yêu, kiếm tiền bằng cách đi làm thêm, dịch sách để… chiêu đãi nàng bằng chính những đồng tiền anh kiếm được, thay vì hênh hoang với nàng bằng… hầu bao của phụ huynh. Những chia sẻ rất “thật thà” này của diễn giả nổi tiếng khiến hội trường vỗ tay rần rần.
Phấn đấu để đạt được mơ ước
“Em ngưỡng mộ anh. Em thần tượng anh” - lời thổ lộ táo bạo của một nữ sinh ngay giữa khán phòng không hề làm anh Khanh đổi sắc mặt. Anh cười hóm hỉnh và : “Tôi thường xuyên được nghe những câu như thế này. Tại sao các bạn không ngưỡng mộ chính bản thân mình? Chính con người các bạn có rất nhiều điều đáng ngưỡng mộ. Đừng nên cắm đầu cắm cổ thần tượng tôi hay các ngôi sao nhạc pop làm gì”.
Quách Tuấn Khanh cũng khiến nhiều sinh viên đàn em phải suy nghĩ về những cách để đạt được ước mơ. Là diễn giả chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam, anh Khanh rất đắt show và tất nhiên, giá để nghe một buổi trò chuyện của anh không rẻ chút nào so với túi tiền sinh viên: 1,8 triệu một người. Trước một giãi bày hơi có tính cực đoan rằng “chắc chẳng bao giờ em được gặp anh nữa”, anh nói tỉnh queo: “Sao lại không? Nếu bạn muốn nghe tôi nói chuyện thì hãy tiết kiệm tiền trong vài tháng. Chẳng có gì là không thể”.

Diễn giả Quách Tuấn Khanh chia sẻ:
3 kỹ năng truyền thông quan trọng:
- Nói chuyện trước công chúng: Tự tin thể hiện những giá trị của mình với những người xung quanh
- Xây dựng quan hệ: Đừng ngại kết bạn mới. Hãy nghĩ rằng cả hai chúng ta đều cần có nhau. Hãy nắm chặt tay nhau lúc khó khăn.
- Viết để chia sẻ.
Làm thế nào để phát huy những tiềm năng trong con người bạn:
- Hãy đặt mục tiêu rõ ràng, cụ thể và xứng tầm để tạo hứng thú phấn đấu.
- Cùng đi với người khác trên con đường đạt mục tiêu. Đi một mình sẽ không thể tới đích.

Ngày 5/10, anh Quách Tuấn Khanh sẽ có buổi giao lưu thứ hai với sinh viên TP HCM, diễn ra tại Học viện Hành chính quốc gia (từ 18h tới 20h30) với chủ đề “Để gây dựng sự nghiệp thành công”. Khách mời thứ hai trong buổi nói chuyện là người đẹp Trương Chi Trúc Diễm.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
Diễn viên Hiền Mai là khách mời thứ hai của chương trình tại ĐH KHXH & NV. Cô chia sẻ: "Tình yêu tuyệt vời như thế. Tội gì không yêu?"

Đây là các hoạt động của chương trình giao lưu Đồng hành cùng tân sinh viên “Chia sẻ để thành công cùng các nhân vật thành đạt nổi tiếng” do mạng xã hội Zing Me tổ chức từ tháng 10 đến 31/12. Anh Nguyễn Ngọc Lâm, giám đốc sản phẩm Zing Me cho biết, với những hoạt động hướng về sinh viên như thế này, mạng xã hội thuần Việt mong muốn tạo ra một cộng đồng lớn mạnh hơn nữa, cùng kết nối, chia sẻ những buồn vui, trải nghiệm, giúp các sinh viên thành công hơn trong tương lai.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
Đăng ký làm thành viên của mạng xã hội Zing Me sau buổi giao lưu.

Nhân dịp này, mạng xã hội Zing Me cũng tổ chức cuộc thi viết blog dành cho sinh viên các trường trung cấp, cao đẳng, đại học trong cả nước. Mục đích của cuộc thi là thúc đẩy lối sống biết chia sẻ, cảm thông, quan tâm đến người xung quanh trong những người trẻ tuổi và tìm ra những sinh viên vượt khó, có ý chí cầu tiến, vươn lên trong học tâp để hỗ trợ các bạn vượt qua những khó khăn tài chính. Bài viết cần viết về những nhân vật có thật, các sinh viên gặp khó khăn trong cuộc sống nhưng nỗ lực vươn lên. Những bài viết hay nhất sẽ được trao giải, và nhân vật trong bài sẽ nhận được học bổng của Zing Me. Thời gian nhận bài từ 30/10 đến 31/12. Bạn hãy tham gia ngay nhé.

'Hãy nắm chặt tay, vì chúng ta cần nhau'
Ông Đỗ Thế Nghĩa, giám đốc chiến lược của Zing trao học bổng cho sinh viên ĐH KHXH & NV.

Lịch hoạt động của chương trình giao lưu Đồng hành cùng tân sinh viên tại TP HCM:
1. Trường ĐH Nông Lâm
- Thời gian: 9h - 11h30, ngày 4/11/2010
- Địa điểm: Hội trường B100, Khu Phượng Vỹ, ĐH Nông Lâm, Q.Thủ Đức
- Diễn giả: Thạc sĩ Hồng Anh - Giảng viên ĐH Quốc Tế.
- Khách mời: Diễn viên Chi Bảo
- Chủ đề giao lưu: Tư duy tích cực
2. Học viện Hành chính Quốc gia
- Thời gian: 18h - 20h30, ngày 5/11/2010
- Địa điểm: Hội trường lớn, số 10, đường 3/2, Q.10
- Diễn giả: Quách Tuấn Khanh
- Khách mời: Hoa hậu Trương Chi Trúc Diễm
- Chủ đề giao lưu: Để gây dựng sự nghiệp thành công.

Guardiola: ‘Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới’

Dù đứng ở hai đầu chiến tuyến khác nhau, Pep Guardiola vẫn rất nể phục và kính trọng tài năng của người đồng nghiệp Jose Mourinho.
Thay vì đăng đàn đấu khẩu và chê bai nhau, HLV Pep Guardiola lại dùng những lời có cánh để tán dương Jose Mourinho. Trong bài phát biểu mới nhất trước báo giới, vị thuyền trưởng của Barca cho rằng Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới và hiện tại Real đang có trong tay “một đội hình vĩ đại”.
“Jose Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới. Rất khó để phân định xem ai là số một ai là số hai, nhưng những gì ông ấy đã làm được tại ở Bồ Đào Nha, Anh, Italy và giờ là Tây Ban Nha thật quá ấn tượng. Real giờ đang sở hữu một đội hình quá chất lượng và tôi biết cuộc đua tại La Liga sẽ rất khốc liệt. Dù sao tôi vẫn hi vọng đội bóng của mình bảo vệ được ngai vàng”, HLV Pep Guardiola cho hay.

Guardiola: ‘Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới’

Mourinho đi đến đâu là ở đó có danh hiệu và đây là một sự đe dọa rất lớn với Barca. Các CĐV của Real đều đang kỳ vọng “Người đặc biệt” sẽ giúp đội bóng con cưng của họ tìm lại được những ngày tháng vàng son. Sau 8 vòng đấu đầu tiên, Real của Mourinho đang xếp ở vị trí số một tại La Liga. Ở sân chơi Champions League, “Kền kền trắng” cũng coi như đã đặt một chân vào vòng knock-out khi hạ gục cả Milan, Ajax và Auxerre.
Rạng sáng mai, Barcelona sẽ có trận đấu chênh lệch về đẳng cấp với “tý hon” AS Ceuta tại Copa del Rey. Tuy nhiên, HLV Pep Guardiola vẫn phải lên dây cót yêu cầu các học trò không được chủ quan khinh địch.
“Barca không bao giờ coi thường bất cứ đối thủ nào và Ceuta không phải là ngoại lệ. Có thể trận đấu tại Copa del Rey không quan trọng với AS Ceuta nhưng dù sao đó cũng là một trận đấu nguy hiểm với chúng tôi”.

Vương Linh - Chàng trai nam tính nhất của Vietnam Idol
"Sát hạch" nhanh cùng Đinh Vương Linh
1. Bạn là một người con trai: đầy nam tính nhưng hơi nhút nhát.
2. Một ngày của bạn sẽ trở nên nhàm chán khi: không có âm nhạc.
3. Bạn đã yêu đến lần thứ mấy: Xin phép không trả lời câu hỏi này vì đây là riêng tư của mình. Mình muốn giữ cho riêng mình.
4. Bạn thường làm gì lúc vui/buồn: Mình nghe nhạc
5. Luôn mang theo thứ gì bên mình: Đó là chú dế yêu.
6. Bạn ngủ mấy tiếng/ ngày: Ngày 8 tiếng
7. Làm gì những lúc không ngủ được:Lại nghe những bài mình thích
8. Bài hát mới nhất mà bạn vừa nghe trên Ipod: Vì em chính là em (vì đó là bài mà Linh sẽ thi trong vòng kế tiếp)
9. Quán café gần đây nhất bạn vừa ngồi: Cà phê Đá
10. Quyển sách gần đây nhất bạn vừa đọc? Truyện tranh Doremon
11. Nếu có ai đó đi ngoài đường, thấy bạn và hét toáng lên, Vương Linh Idol kìa! Bạn sẽ làm gì? Cười và chào!
12. Món ăn gần đây nhất bạn làm được? Trứng đúc thịt
13. Phần nào trên cơ thể khiến bạn tự tin/ không tự tin nhất: Mình cảm thấy hài lòng và tự tin với những gì mình đang có
14. Bạn có tin vào trực giác không: Có
15. Bạn có mê tín không: Có một chút
16. Bạn muốn điều gì ở cuộc sống:Những điều tốt đẹp nhất
17. Nếu như thế giới này sắp đi đến tận thế (như phim 2012), bạn muốn được gặp ai và ăn cái gì: Mình muốn được gặp Thương Đế và xin đừng có ngày tận thế.
18. Nếu được so sánh mình với một con vật, bạn sẽ chọn con gì và vì sao:Con chim, vì suốt ngày đươc hót.
19. Phong cách thời trang: nam tính, quyến rũ và có chút gì đó bụi bặm.
20.Bạn đã từng là nạn nhân thời trang chưa: Chưa
21.Loại ô tô bạn thích: Ô tô 7 chỗ
22.Hãy kể tên ba con vật mà bạn thích hiện tại: Chó, mèo, heo mọi
23. Hãy kể ba tính cách của ba con thú trên: Thông minh, nghịch ngợm, ngây ngô.
Bâng Khuâng Đêm Hà Tĩnh
Sáng tác: An Thuyên- Thể hiện:Thiên Bảo


Người đẹp Hoa hậu Quốc tế vui vẻ trong tiệc đấu giá từ thiện
(Dân trí) - Thục Quyên của Việt Nam diện váy ngắn gợi cảm cùng 67 cô gái đẹp tham dự bữa tiệc đấu giá từ thiện diễn ra tối 5/11 vừa qua tại Thành Đô, Trung Quốc.
 
 
Thục Quyên của Việt Nam
 
HH Serbia và Việt Nam
 

Nepal


Người đẹp quây quần trong tiệc đấu giá từ thiện

Hh Phillippines và Serbia


Slovakia


Dominica


Phần Lan

Jamaica


Thái Lan

 


Venezuela


Nhật Bản


Brazil và Thái Lan


Thái Lan


Hi Lạp
 

Canada


Mỹ


Costa Rica


Martinique


Pháp




Paraguay


Tây Ban Nha


Trung Quốc


Đài Loan


Thụy Điển, Bỉ


HH Ấn Độ giới thiệu bức tranh đấu giá của cô


Anh


Sri Lanka


Malaysia

Hong Kong


Séc


Macao
 

Thục Quyên trong trang phục váy dạ hội


Ngược Dòng Hương Giang
Sáng tác: Đức Trịnh - Thể hiện: Vân Khánh
Nặng Tình Cố Hương
Sáng tác: Nguyễn Tất Tùng - Thể hiện:Thiên Bảo
Mưa Thơm Phố Huế
Sáng tác: Trương Quang Tuấn
Bí ẩn của ngôn ngữ hình thể trong kinh doanh
Có vô số nhân tố ảnh hưởng đến sự nghiệp như thói quen làm việc, vận may, thời cơ, đối thủ cạnh tranh, tính cách, người ủng hộ... Giới chuyên môn cho rằng yếu tố khả quan trọng để đạt được thành công là ngôn ngữ cơ thể.
Có bao giờ bạn tự hỏi: Ấn tượng bạn để lại với cấp trên như thế nào? Bạn có nên tin vào những điều cấp trên đã hứa không? Bạn đang nuôi dưỡng mối quan hệ với một khách hàng tiềm năng, hay đang lãng phí thời gian của bản thân? Liệu các thành viên trong nhóm có hiểu những gì bạn nói hay không? Làm thế nào để biết rằng anh ấy thật sự ủng hộ ý kiến của bạn?...
Lời đáp cho những câu hỏi trên không chỉ ở những lời nói, hành động bạn nhận được mà còn phụ thuộc rất nhiều vào cử chỉ, thái độ của những người xung quanh.
Chính ngôn ngữ là phương tiện được dùng để chuyển tải thông điệp trong công việc cũng như trong giao tiếp thường ngày. Tuy nhiên, có những điều không phải lúc nào cũng được nói ra bằng ngôn ngữ. Chẳng hạn, cấp trên của bạn nói rằng cô ấy sẽ xem xét việc thăng chức cho bạn, nhưng trong khi nói, cô ấy lại khoanh tay và mỉm cười gượng gạo. Rõ ràng hai thông điệp mà cô ấy đưa ra hoàn toàn trái ngược nhau. Tương tự, nếu một khách hàng nói với bạn rằng ông ấy không quan tâm tới chuyện mua xe mới, nhưng ánh mắt ông ấy lại không rời bản hợp đồng trên bàn thì điều đó nghĩa là ông ấy thực sự muốn có một chiếc xe mới.
Dấu hiệu của giao tiếp không lời thường tiết lộ những động cơ và cảm xúc ẩn chứa bên trong như sự sợ hãi, lòng trung thực, niềm vui, sự do dự, nỗi thất vọng và hơn thế nữa… Những cử chỉ nhỏ nhặt nhất, như cách đồng nghiệp của bạn đứng hoặc bước vào phòng cũng cho thấy sự tự tin, thận trọng hoặc độ tin cậy nơi họ. Rồi, cách bạn ngồi, đứng hoặc cách bạn nhìn người khác cũng hé lộ phần nào trạng thái cảm xúc trong con người bạn.
Bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể
Có thể bạn sẽ ngạc nhiên về điều này. Nhưng, thật sự bạn là một chuyên gia ngôn ngữ hình thể. Khi còn là trẻ sơ sinh, chúng ta đã biết biểu lộ nhiều nét mặt khác nhau để thể hiện tâm trạng và nhu cầu của bản thân. Chúng ta biết chỉ đúng những vật mình thích, biết kết nối với mẹ qua ánh mắt yêu thương. Lớn hơn một chút, chúng ta biết tiếp thu những cử chỉ và biểu hiện phù hợp với truyền thống văn hóa trong gia đình. Rồi khi trưởng thành, chúng ta học cách chọn lọc (và che đậy) những dấu hiệu mình muốn hoặc không muốn. Tất cả những điều đó được thực hiện một cách vô thức.
Ngôn ngữ hình thể nơi công sở
Hiểu rõ vai trò của ngôn ngữ hình thể trong các hoạt động thường ngày là việc hết sức quan trọng. Rất nhiều nhân viên, nhà quản lý chỉ vì không đọc được dấu hiệu ngôn ngữ cử chỉ của đối phương, hoặc không nhận ra sự khác biệt về văn hóa khi đưa ra cử chỉ, khiến cho mọi nỗ lực trong mối quan hệ hai bên bị đổ vỡ.
Như vậy rõ ràng chúng ta nên đánh giá đúng tầm quan trọng cũng như sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp, đặc biệt là trong môi trường công sở.
Khi nắm vững một số kỹ năng ngôn ngữ hình thể thông dụng, bạn sẽ không chỉ đọc chính xác các dấu hiệu không lời từ đối phương, mà còn biết sử dụng ngôn ngữ hình thể một cách hiệu quả, nhờ đó đạt được lợi thế cạnh tranh trong đàm phán. Và điều này có thể áp dụng vào bất cứ lĩnh vực nào.
Thực tế cho thấy, thành công trong công việc gắn liền với trình độ và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ hình thể. Những ví dụ sau sẽ minh chứng minh rất rõ điều ấy.
1. Khả năng lãnh đạo
Vào cuối Thời đại Công nghiệp (Industrial Age), hiệu quả của lối quản lý mệnh lệnh và kiểm soát đang suy giảm mạnh. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo (từ các thành viên ban quản trị cấp cao đến các tổ trưởng sản xuất) đều phải tìm cách lãnh đạo cấp dưới thông qua ảnh hưởng của mình hơn là dựa vào quyền hành từ chức vụ.
Ảnh hưởng đó có được nhờ vào hai khả năng sau:
- Hiểu tâm lý nhân viên, biết lắng nghe những gì họ nói và biết đọc những thông điệp không lời mà họ thể hiện.
- Cử chỉ và lời nói phải đồng bộ. Điều này có nghĩa là ngôn ngữ hình thể phải phù hợp với lời nói để từ đó củng cố nội dung muốn truyền đạt thay vì phá hỏng nó.
2. Giáo dục
Ngôn ngữ cử chỉ của giáo viên là nhân tố quan trọng thúc đẩy học sinh hoàn thành bài tập về nhà. Nghiên cứu ở các nhóm học sinh tiểu học, trung học và đại học cho thấy, ở mọi lứa tuổi khác nhau, học sinh đều có thiện cảm với những giáo viên hay sử dụng cử chỉ thân thiện hơn, như giao tiếp bằng mắt, gật đầu, hướng người về trước, mỉm cười… Việc phát huy những cử chỉ này ở giáo viên sẽ giúp học sinh có thêm động lực học tập, các em sẽ yêu thích giờ học hơn và sẵn sàng nghe theo lời thầy cô giáo.
3. Bán hàng
Khi một nhân viên bán hàng gặp gỡ khách hàng tiềm năng, khách hàng sẽ đánh giá nhân viên ấy dựa vào vẻ ngoài và cách cư xử của họ. Quá trình này chỉ diễn ra trong khoảng bảy giây nhưng ấn tượng đó lại kéo dài. Việc bán hàng được hay không tùy thuộc vào những hành vi không lời được thể hiện ngay trong lần gặp đầu tiên. Trang điểm, tư thế, tác phong, nét mặt và ánh mắt là những yếu tố mà các nhân viên bán hàng thành công cần nắm vững và biết cách vận dụng.
3. Đàm phán
Một cuộc đàm phán thành công có thể nhờ vào khả năng nắm bắt những ẩn ý sau lời nói của đối phương. Để có được điều này, bạn cần hiểu được ngôn ngữ hình thể. Nhà đàm phán tài ba là người nhận ra khi nào nên trì hoãn hoặc thúc đẩy quá trình đàm phán. Họ biết cách xoa dịu và bình ổn những tình huống căng thẳng. Tuy nhiên, thay vì chỉ căn cứ vào lời nói, cách chủ yếu họ sử dụng để đánh giá diễn biến xung quanh là quan sát những cử chỉ không lời vốn bộc lộ những động cơ vô thức và dễ bị bỏ qua.
4. Y tế
Kỹ năng giao tiếp không lời của bác sĩ đối với bệnh nhân có một vai trò rất quan trọng. Mặc dù không ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều trị bệnh (như các thiết bị kỹ thuật, dụng cụ y tế), nhưng việc nhạy bén với những dấu hiệu không lời và thể hiện "sự thấu cảm lâm sàng" đối với người bệnh sẽ đem lại cảm giác hài lòng nơi người bệnh, giúp họ bình tâm và lạc quan hơn.
5. Pháp luật
Khi thẩm vấn nghi phạm, thay vì chỉ lắng nghe những câu trả lời mâu thuẫn nhau, một cảnh sát được đào tạo bài bản sẽ tìm kiếm những phản ứng tâm lý thoáng qua trên khuôn mặt nghi phạm. Chẳng hạn nụ cười thoáng qua có thể ngầm hiểu rằng nghi phạm tự tin rằng hắn vừa đánh lừa được thẩm vấn viên.
6. Dịch vụ khách hàng
Nhiều người cho rằng thái độ phục vụ tận tình của nhân viên chính là chìa khóa đem lại thành công cho dịch vụ khách hàng. Nghiên cứu cho thấy khả năng nhận biết các dấu hiệu không lời của nhân viên cũng quan trọng không kém. Việc nắm bắt ngôn ngữ hình thể một cách tinh tế sẽ giúp nhân viên hiểu rõ khách hàng thật sự đang nghĩ gì hoặc cảm nhận được gì.
7. Xây dựng kỹ năng
Vận dụng kỹ năng giao tiếp không lời nghĩa là bạn đi vào tìm hiểu và áp dụng những cử chỉ gần như vô thức trước đó. Thay vì chỉ cảm nhận về một ai đó, bạn có thể nhìn vào dấu hiệu hình thể để đọc suy nghĩ của họ. Thay vì chỉ hy vọng rằng bản thân tạo được ấn tượng tốt thì bạn có thể biết cử chỉ nào giúp bạn có được sự tự tin và lấy được thiện cảm từ đối phương.
Nắm được các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết này không chỉ giúp bạn học hỏi những điều mới mẻ mà còn giúp bạn nhận thức được sức mạnh của ngôn ngữ cử chỉ để từ đó phát huy hơn nữa năng lực của bản thân. Bạn sẽ biết cách tạo ấn tượng tốt đẹp ngay từ lần gặp đầu tiên. Bạn cũng sẽ biết cách giải mã một ánh mắt, một nét mặt hay cử chỉ nào đó và nhanh chóng xây dựng niềm tin với khách hàng cũng như các thành viên trong nhóm.
Một điều thú vị khác là bạn có thể rèn luyện kỹ năng này ở bất cứ đâu: ngoài sân bay, trong các cuộc họp, tại bữa ăn tối cùng gia đình hoặc trong một bữa tiệc bạn bè. Bạn sẽ ngạc nhiên khi nắm bắt được những thông điệp từ ngôn ngữ cử chỉ của người khác. Và khi áp dụng những hiểu biết mới mẻ này vào các mối quan hệ trong công việc, bạn sẽ thấy ngôn ngữ hình thể trở thành một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu trên bước đường thành công của bạn.
Đi Tìm Nắng Hạ
Sáng tác: Nguyễn Tất Tùng - Thể hiện:Khánh Duy
Chiều Mưa Vỹ Dạ
Sáng tác: Lê Triều Quang - Thể hiện:Vân Khánh
Người Tình Và Huế Xưa
Sáng tác: Phố Thu - Thể hiện: Thiên Bảo
Ru Nửa Vầng Trăng
Sáng tác: Huy Phương - Thể hiện:Khánh Duy
Chiều Sông Hương
Sáng tác: Vĩnh Phúc - Thể hiện: Vân Khánh
Chiều Mưa Xứ Huế
Sáng tác: Ngọc Sơn - Thể hiện: Thiên Bảo
Giữa Mạc Tư Khoa Nghe Câu Hò Xứ Nghệ
Sáng tác: Trần Hoàn - Thể hiện: Ngọc Sơn
Chuyện Tình Sông Hương
Sáng tác: Đinh Trầm Ca - Thể hiện:Khánh Duy
Bâng Khuâng Đêm Hà Tĩnh
Sáng tác: An Thuyên
Hồi ức của thiên tài
Joe Flom là sáng lập viên còn sống cuối cùng "góp tên" trong Hãng luật Skadden, Arps, Slate, Meagher và Flom danh tiếng tại Mỹ với trên 2.000 thành viên. Ông được xếp vào danh sách những kẻ xuất chúng với những bí kíp khiến người ta phải săn tìm.
Ông có một góc làm việc trên tầng chóp của tòa nhà Condé Nast ở Manhattan. Ông thấp và hơi gù. Đầu to, tai lớn với dái tai dài, đôi mắt nhỏ màu xanh ẩn sau mắt kính kiểu phi công to quá khổ. Giờ thì ông khá gầy, nhưng trong những tháng ngày huy hoàng, ông rất bệ vệ. Ông lụt tụt khi bước đi. Ông đứng sững khi suy nghĩ. Ông lầm bầm khi trò chuyện, và khi ông bước xuống khu sảnh của Skadden, Arps, những cuộc đối thoại chỉ còn là lào phào im lặng.
Flom sinh trưởng tại vùng phụ cận Borough Park của Brooklyn, đúng trong thời kỳ Đại khủng hoảng - bắt đầu từ năm 1929 và kết thúc cuối thập niên 1930. Các sử gia thường lấy mốc đánh dấu khởi đầu giai đoạn này vào ngày 29/10/1929 - ngày thị trường chứng khoán sụp đổ. Cha mẹ ông là dân nhập cư Do Thái đến từ Đông Âu. Cha ông - Isadore vốn là người tổ chức nghiệp đoàn trong ngành may mặc, sau chuyển sang công việc may đệm vai cho trang phục nữ. Mẹ ông thì nhận đồ trang trí thủ công về làm thêm tại nhà. Họ nghèo túng thảm thương. Khi Joe lớn, hầu như năm nào gia đình ông cũng chuyển nhà, vì thời bấy giờ, theo thông lệ chủ nhà sẽ cho người thuê mới miễn phí một tháng tiền nhà, điều rất quan trọng đối với gia đình Flom.
Lớn lên, Flom dự tuyển vào trường trung học công lập Townsend Harris danh giá, một trường mà trong bốn mươi năm tồn tại đã sản sinh ra ba người giành giải Nobel, 6 người đoạt giải Pulitzer, một thẩm phán Tòa án Tối cao Mỹ, chưa kể đến Jonas Salk, nhà sáng chế vaccine bại liệt. Flom được tuyển vào trường. Ông trải qua hai năm học ca đêm tại Trường City ở khu thượng Manhattan, làm việc quần quật cả ngày để trang trải cuộc sống, đăng ký gia nhập quân đội, hoàn thành nghĩa vụ rồi ứng tuyển vào Trường Luật Harvard.
"Tôi đã ước mơ được vào ngành luật từ hồi mới sáu tuổi", Flom nói. Chưa có một tấm bằng nào trong bảng thành tích nhưng trường Harvard vẫn đồng ý nhận ông. "Tại sao ư? Tôi đã viết cho họ một bức thư thuyết phục họ rằng tôi chính là câu trả lời tuyệt hảo". Cách Flom giải thích sự việc, với lối nói vắn tắt đặc trưng đã thuyết phục được Harvard nhận ông vào học, đó là thời điểm cuối những năm 1940. Học tại trường, ông chẳng bao giờ ghi chép. "Năm thứ nhất, chúng tôi thường áp dụng một phương pháp học bằng cách ghi chép cẩn thận về tình huống trên lớp, tóm tắt lại, rồi ghi lần nữa vào mẩu giấy, dán lên trên đầu mỗi hồ sơ ", Charles Harr - một bạn cùng lớp với Flom đã nhớ lại. "Đó là cách chúng tôi học về các vụ xử án. Nhưng Joe thì không. Anh ấy chẳng làm gì cả. Ở anh ấy có một phẩm chất mà chúng tôi luôn nghĩ và xếp vào nhóm "tư duy như luật sư'. Anh ấy có năng lực phán xử tuyệt vời".
Flom được vinh danh trong tạp chí Law Review - một vinh dự dành cho sinh viên đứng đầu lớp. Trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh hồi năm thứ hai, suốt "mùa tuyển dụng", Flom đến New York để dự phỏng vấn với những hãng luật lớn thời đó. "Tôi là một thằng bé béo bệu lóng ngóng, vụng về. Tôi không thấy thoải mái lắm", Flom nhớ lại. "Đến cuối mùa tuyển dụng, tôi là một trong hai đứa còn lại của lớp không kiếm nổi một công việc. Thế rồi một ngày kia, một trong số các giảng viên nói rằng có mấy người đang khởi sự một hãng luật. Tôi gặp họ và trong suốt buổi gặp, họ nói cho tôi nghe về những mạo hiểm của việc chung tay góp sức với một hãng luật vô danh, chưa có lấy nổi một khách hàng. Họ càng nói, tôi càng thích họ hơn. Thế nên tôi bảo ngay: thì sao chứ, tôi muốn nhận cơ hội này. Tất cả gom góp lại với nhau được ba nghìn sáu trăm đôla một năm, đó cũng là mức lương khởi điểm". Ban đầu, chỉ có Marshall Skadden và Leslie Arps - cả hai đều bị một hãng luật quan trọng tại Phố Wall từ chối và John Slate, vốn làm việc ở hãng hàng không Pan Am. Flom là cộng sự của họ. Họ có một văn phòng nhỏ xíu trên tầng chóp của tòa nhà Lehman Brothers ở Phố Wall. "Chúng ta chuyên về lĩnh vực luật nào?", Flom nói rồi cười vang. "Bất cứ vụ nào đến tay”.
Đến năm 1954, Flom đảm nhận vị trí quản lý cho Skadden, và hãng luật của họ bắt đầu phát triển mạnh. Rất nhanh chóng, công ty có một trăm luật sư. Rồi hai trăm. Khi đạt tới con số ba trăm, một trong số các cộng sự của Flom - Morris Kramer đến gặp Flom và bày tỏ rằng ông cảm thấy rất tội lỗi vì đã tuyển vào những người trẻ tuổi mới tốt nghiệp từ trường luật. Hãng Skadden phát triển quá mạnh, Kramer nói, đến mức khó lòng tưởng tượng nổi công ty sẽ phát triển hơn như thế để có thể đề bạt bất cứ ai trong số những nhân viên ấy. Flom nói với Kramer, "Có sao đâu, chúng ta sẽ tăng lên thành một nghìn nhân viên", Flom chẳng bao giờ thôi tham vọng.
Ngày nay hãng Skadden, Arps đó đã trở thành một trong những hãng luật lớn và quyền lực nhất thế giới, có gần 2.000 luật sư tại hai mươi ba văn phòng trên khắp thế giới, và thu về hơn 1 tỷ đô la mỗi năm. Trong văn phòng của mình, Flom trưng ảnh ông chụp với tổng thống George Bush (cha) và Bill Clinton. Ông sống trong căn hộ rộng thênh thang thuộc một tòa nhà xa hoa ở khu thượng Manhattan. Trong suốt gần 30 năm, nếu một công ty nào đó nằm trong danh sách Fortune 500 sắp bị thôn tính hay đang định thôn tính ai đó, hoặc đơn giản là một nhân vật tai to mặt lớn trong lĩnh vực nào đó gặp rắc rối, Joseph Flom ắt hẳn phải là luật sư còn Skadden, Arps là hãng luật đại diện cho họ - nếu không phải thế, công ty đó chắc hẳn phải ước giá mà được Skadden, Arps bảo vệ.
Tôi hy vọng bây giờ bạn đang hoài nghi về kiểu câu chuyện thế này. Một đứa trẻ nguồn gốc nhập cư thông minh vượt qua đói nghèo và Đại khủng hoảng, không thể tìm nổi một công việc tại những hãng luật cổ hủ hẹp hòi nơi thành thị, tự làm nên nghiệp lớn dựa vào cạnh tranh và năng lực thực sự. Đó là một câu chuyện từ khốn khó đi lên giàu sang, và tất cả những gì chúng ta học được cho đến lúc này từ các tuyển thủ khúc côn cầu, các tỷ phú phần mềm đều gợi ra một điều: Thành công không diễn ra theo cách đó. Những người thành đạt không làm nên mọi thứ một mình. Việc họ xuất thân từ đâu là rất quan trọng. Họ không phải là sản phẩm của những nơi chốn và môi trường riêng biệt nào đó.
Không nói thêm gì nữa về trí thông minh, tính cách hay tham vọng của Joe Flom, mặc dù hiển nhiên là ông có thừa ba yếu tố này. Không cần thêm bất cứ lời khen ngợi nào từ các khách hàng về tài năng thiên bẩm của Flom. Không thêm bất cứ câu chuyện màu mè nào về cái sự nổi như cồn của hãng Skadden, Arps, Slate, Meagher & Flom.
(Trích cuốn "Những kẻ xuất chúng" do Công ty Alpha Books phát hành
Quy tắc 10.000 giờ của các vĩ nhân
Không có vinh quang nào lại không phải trả giá, những nhân vật được coi là xuất chúng trong lịch sử cũng phải tận dụng từng giây từng phút để tìm tòi nghiên cứu. Và từ đây, quy tắc 10.000 giờ hình thành.
Năm 1971, trường Đại học Michigan khai trương Trung tâm Máy tính mới trong một tòa nhà mới xây dựng tại Beal Avenue ở Ann Arbor, với các bức tường gạch bên ngoài màu be và mặt tiền ốp kính tối màu. Hệ thống máy chủ to lớn của trường tọa lạc giữa căn phòng màu trắng rộng rãi. Một thành viên trong khoa nhớ lại: "Nhìn vào đó hệt như một trong những cảnh cuối cùng của bộ phim 2001: A Space Odyssey (Cuộc du hành vũ trụ)".
Ngay mé bên là hàng tá các cỗ máy đọc phiếu đục lỗ - thứ trong những tháng ngày ấy làm nhiệm vụ nhập dữ liệu cho những thiết bị đầu cuối máy tính. Vào năm 1971, đó là thành tựu tiên tiến hạng nhất của thời đại. Đại học Michigan nắm trong tay một trong những chương trình khoa học máy tính tiên tiến nhất trên thế giới và trong suốt thời gian tồn tại của Trung tâm Máy tính, hàng nghìn sinh viên đã bước qua căn phòng trắng ấy, và người nổi tiếng nhất trong số đó là một chàng trai trẻ nhút nhát mang tên Bill Joy.
Joy nhập học trường Michigan đúng vào năm Trung tâm Máy tính khai trương. Cậu 16 tuổi, cao và rất gầy, với kiểu đầu ngỗ ngược. Trường cấp III North Farmington, ngoại ô Detroit, nơi cậu học, đã bầu chọn cậu là "Học sinh siêng năng nhất". Bill Joy chính là một "kẻ nghiện máy tính vô thời hạn". Cậu đã từng nghĩ mình sẽ trở thành một nhà sinh vật học hoặc nhà toán học. Nhưng cuối năm thứ nhất, tình cờ sa chân vào Trung tâm Máy tính - và cậu bị vướng ngay vào.
Kể từ thời điểm đó trở đi, Trung tâm Máy tính chính là cuộc sống của Joy. Cậu lập trình bất cứ khi nào có thể. Kiếm được việc làm với một giáo sư khoa học máy tính nên cậu có thể lập trình suốt mùa hè. Vào năm 1975, Joy theo học khoa sau đại học tại trường Đại học California ở Berkeley. Tại đó, cậu thậm chí còn dấn sâu hơn vào thế giới phần mềm máy tính. Trong bài kiểm tra vấn đáp cho kỳ thi Tiến sỹ của mình, cậu đã xây dựng một thuật toán đặc biệt phức tạp về chặng bay đến nỗi, như một trong những người ái mộ cậu đã từng viết, "làm kinh sợ các vị giám khảo đến mức một trong số họ sau đó đã ví trải nghiệm đó như là 'Jesus làm bẽ mặt các bậc tiền bối"'.
Cộng tác với một nhóm nhỏ các lập trình viên, Joy đảm trách nhiệm vụ viết lại UNIX, một hệ thống phần mềm được phát triển bởi AT&T cho các máy trung tâm. Phiên bản của Joy rất tốt. Nó tốt đến mức, trên thực tế, nó đã trở thành - và hiện vẫn duy trì - vai trò hệ điều hành mà đúng theo nghĩa đen hàng triệu máy tính khắp thế giới vận hành nhờ vào đó. "Nếu mở chiếc máy Mac của bạn ở chế độ có thể nhìn thấy phần mã nguồn", Joy nói, "Tôi sẽ nhìn thấy những thứ mà tôi nhớ mình đã viết ra hai mươi lăm năm về trước", anh cho biết thêm. Và, bạn có biết ai đã viết ra hầu hết phần mềm cho phép bạn truy cập vào Internet không? Đó chính là Bill Joy.
Sau khi tốt nghiệp Berkeley, Joy là đồng sáng lập hãng Sun Microsystems ở Thung lũng Silicon, một trong những công ty dự phần then chốt nhất trong cuộc cách mạng máy tính. Tại đó anh đã viết lại một ngôn ngữ máy tính khác - Java - và huyền thoại về anh càng trở nên ghê gớm hơn. Giữa những người trong nghề ở Thung lũng Silicon, Joy được nhắc tới với nhiều nể trọng kiểu như Bill Gates của Microsoft vậy. Anh đôi khi còn được gọi là Edison của Internet. Như David Gelernter, nhà khoa học máy tính trường Yale, nói: "Bill Joy là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử hiện đại ngành máy tính".
Câu chuyện về tài năng thiên bẩm của Bill Joy đã được kể biết bao nhiêu lần, và bài học luôn là như thế. Lĩnh vực này là một thế giới thuần khiết nhất trong số các chế độ hiền tài. Lập trình máy tính không vận hành như một thứ hội vui tuổi già, nơi bạn thăng tiến nhờ vào tiền bạc hay các mối quan hệ. Nó là một sân chơi rộng mở trong đó tất cả những người tham dự được đánh giá chỉ dựa trên tài năng và thành tích của họ. Đó là một thế giới nơi những người xuất sắc nhất giành thắng lợi, và Joy rõ ràng là một trong những người như thế.
Mặc dù vậy, sẽ dễ dàng hơn nhiều để tiếp nhận phiên bản ấy của các sự kiện, nếu chúng ta không nhìn vào các cầu thủ khúc côn cầu và bóng đá. Lĩnh vực của họ cũng từng có nhiệm vụ phải là một chế độ nơi tài năng là điều tiên quyết. Có điều nó đã không phải hoàn toàn như vậy. Đó là câu chuyện về Những kẻ xuất chúng trong một lĩnh vực riêng biệt nào đó vươn tới vị thế cao ngất của họ thông qua sự kết hợp giữa năng lực, cơ hội và ưu thế không bị ràng buộc tối đa.
Liệu có khả năng mẫu hình tương tự của những cơ hội đặc biệt cũng khai triển trong một thế giới thực hay không? Hãy cùng quay trở lại với câu chuyện của Bill Joy và thử khám phá.
Bill Joy có tài năng nhưng đó không phải nguyên cớ duy nhất. Hãy nhìn vào cả dòng chảy cơ hội cuốn đến với Bill Joy. Nhờ việc đến học ở một trường xa xôi hẻo lánh như Đại học Michigan, anh có thể luyện tập trên một hệ thống sử dụng đồng thời thay vì với những thẻ đột lỗ; lại nữa, hệ thống của Michigan bỗng nhiên tồn tại một lỗi kỹ thuật để anh có thể lập trình bất kỳ thứ gì anh muốn; vì trường này tự nguyện chi trả tiền bạc để Trung tâm Máy tính mở cửa 24/24, nên anh có thể thức trắng đêm ở đó. Và vì anh có thể dốc vào đó rất nhiều thời giờ, nên đến thời điểm anh đột nhiên được mời viết lại UNIX, anh chắc chắn đã sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ. Bill Joy thật thông minh. Anh muốn học. Nguyên cớ này đóng vai trò quan trọng. Nhưng trước khi Joy có thể trở thành một chuyên gia thực thụ, ai đó phải đem đến cho anh một cơ hội để học cách làm thế nào trở thành một chuyên gia.
"Tại Michigan, tôi lập trình 8 giờ hoặc 10 giờ một ngày", anh nói tiếp. "Đến lúc ở Berkeley tôi làm việc đó cả ngày lẫn đêm. Tôi có một bộ thiết bị đầu cuối ở nhà. Tôi thức đến tận 2 hay 3 giờ sáng, xem những bộ phim cũ kỹ và lập trình. Đôi khi tôi ngủ gục ngay trên bàn phím" - Bill Joy diễn tả bằng điệu bộ đầu mình gục trên bàn phím - "Và bạn có biết là một phím sẽ nhấn đi nhấn lại ra sao cho đến cuối cùng, rồi nó bắt đầu kêu beep, beep, beep? Sau khi chuyện đó xảy ra ba lần, đã đến lúc bạn phải đi ngủ rồi. Tôi vẫn tương đối kém ngay cả khi tôi đã đến Berkeley. Tôi bắt đầu thành thạo vào năm thứ hai. Đây chính là thời điểm tôi viết ra những chương trình vẫn được sử dụng đến tận ngày nay, ba mươi năm kể từ khi đó".
Bill Joy cho biết nếu tính cả những ngày hè, những buổi tối, và thầu đêm suốt sáng anh đã ngồi lỳ bên máy tính chừng 10.000 giờ để tìm tòi và khám phá những tiện ích mà chiếc máy tính mang lại.
Vậy, quy luật 10.000 giờ có phải là yếu tố chính thành công? Nếu chúng ta bới sâu xuống phía dưới bề ngoài của tất cả những người thành công vĩ đại, liệu chúng ta có luôn tìm thấy những thứ tương tự như Trung tâm Máy tính Michigan hay đội tuyển toàn sao môn khúc côn cầu - tức một kiểu cơ hội luyện tập đặc biệt nào đó không?
Hãy kiểm nghiệm ý tưởng này với hai ví dụ, và để đơn giản dễ hiểu, ta sẽ lựa chọn ví dụ càng quen thuộc càng tốt: Beatles, một trong những ban nhạc rock nổi danh nhất từ trước tới nay; và Bill Gates, một trong những người giàu nhất thế giới.
Beatles - với bốn thành viên John Lennon, Paul McCartney, George Harrison, và Ringo Starr - đặt chân tới nước Mỹ vào tháng Hai năm 1964, bắt đầu cái gọi là Cuộc xâm lăng Anh quốc vào sân khấu âm nhạc Mỹ và cho ra đời một loạt những bản thu âm đỉnh cao đã biến đổi cả diện mạo của nền âm nhạc đại chúng.
Điều quan sát thú vị đầu tiên về Beatles để phục vụ cho những mục đích của chúng ta là họ đã sát cánh bên nhau được bao lâu tính đến thời điểm họ đặt chân đến Mỹ? Tính cả thời gian chơi, tập luyện không ngừng thì con số này cũng suýt soát 10.000 giờ.
John Lennon một trong những thành viên trong ban nhạc nói: Chúng tôi chơi khá hơn và thêm tự tin. Điều đó là tất yếu sau những trải nghiệm do việc chơi nhạc suốt đêm dài mang lại. Thêm cái lợi nữa họ là người nước ngoài. Chúng tôi phải cố gắng thậm chí nhiều hơn nữa, trút tất cả trái tim và tâm hồn vào đó, để vượt qua chính mình".
Còn đây là Pete Best, tay trống của Beatles tâm sự: "Mỗi khi có tin tức lan ra về việc chúng tôi đang thực hiện một sô diễn, câu lạc bộ bắt tay vào dập tắt nó ngay. Chúng tôi chơi suốt bảy tối một tuần. Mới đầu chúng tôi chơi gần như một mạch không nghỉ tới khi câu lạc bộ đóng cửa lúc hai mươi ba giờ. Nhưng khi chúng tôi đã chơi khá hơn, đám đông khán giả thường ở lại tới tận hai giờ sáng".
Giờ hãy cùng quay trở lại với lịch sử của Bill Gates. Câu chuyện của ông cũng nổi tiếng tương tự như của Beatles. Một thần đồng toán học thông minh, trẻ trung khám phá việc lập trình máy tính. Bỏ học dở chừng trường Harvard. Khởi sự một công ty máy tính có tên Microsoft với bạn bè. Bằng trí thông minh và tham vọng cũng như lòng quả cảm tuyệt đối, ông đã xây dựng nó trở thành người khổng lồ của thế giới phần mềm. Đó chỉ là đường viền ngoài rộng lớn thôi. Hãy đào vào sâu thêm một chút.
Năm 1968, Gates đã gần như sống trong phòng máy tính. Ông và những người khác bắt đầu tự dạy cho mình cách sử dụng thiết bị mới mẻ lạ lùng này. Trong khoảng thời gian bảy tháng hồi năm 1971, Gates và nhóm bạn của ông đã sử dụng máy tính suốt 1.575 giờ đồng hồ trên máy chủ của ISI, tính trung bình là 8 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần.
"Đó là nỗi ám ảnh với tôi", Gates nói về những năm đầu tiên ở trung học của ông. "Tôi bỏ tiết thể dục. Tôi đến đó vào ban đêm. Chúng tôi lập trình vào cuối tuần. Hiếm hoi lắm mới có một tuần mà chúng tôi không tiêu tốn vào đó hai mươi hay ba mươi tiếng đồng hồ. Có một khoảng thời gian Paul Allen với tôi vướng vào chuyện rắc rối vì ăn cắp một loạt password và làm sập hệ thống. Chúng tôi bị tống cổ. Tôi không được sử dụng máy tính trong suốt mùa hè. Khi ấy tôi mới 15-16 tuổi.
Sau đó, tôi phát hiện ra là Paul tìm được một máy tính để trống ở Đại học Washington. Họ đặt những chiếc máy này ở trung tâm y tế và khu điều trị. Những chiếc máy này được đặt kế hoạch làm việc 24/24, nhưng có một khoảng thời gian nhàn rỗi, vậy nên trong khoảng từ 3 giờ đến 6 giờ sáng họ không lên kế hoạch gì cả", Gates cười. "Tôi rời khỏi nhà vào buổi đêm, sau giờ đi ngủ. Tôi có thể cuốc bộ đến Đại học Washington từ nhà. Hoặc tôi sẽ bắt xe buýt. Đó là lý do tại sao giờ đây tôi luôn hào phóng với Đại học Washington, bởi họ đã từng để tôi ăn cắp quá nhiều thời gian sử dụng máy tính." (Nhiều năm sau đó, mẹ Gates nói, "Chúng tôi cứ thắc mắc tại sao lại thằng bé lại khổ sở đến thế khi phải thức dậy vào buổi sáng")", Gates nói.
(Trích cuốn sách "Những kẻ xuất chúng" do Công ty Alpha Books phát hành

Guardiola: ‘Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới’

Dù đứng ở hai đầu chiến tuyến khác nhau, Pep Guardiola vẫn rất nể phục và kính trọng tài năng của người đồng nghiệp Jose Mourinho.
Thay vì đăng đàn đấu khẩu và chê bai nhau, HLV Pep Guardiola lại dùng những lời có cánh để tán dương Jose Mourinho. Trong bài phát biểu mới nhất trước báo giới, vị thuyền trưởng của Barca cho rằng Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới và hiện tại Real đang có trong tay “một đội hình vĩ đại”.
“Jose Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới. Rất khó để phân định xem ai là số một ai là số hai, nhưng những gì ông ấy đã làm được tại ở Bồ Đào Nha, Anh, Italy và giờ là Tây Ban Nha thật quá ấn tượng. Real giờ đang sở hữu một đội hình quá chất lượng và tôi biết cuộc đua tại La Liga sẽ rất khốc liệt. Dù sao tôi vẫn hi vọng đội bóng của mình bảo vệ được ngai vàng”, HLV Pep Guardiola cho hay.
Guardiola: ‘Mourinho là HLV xuất sắc nhất thế giới’

Mourinho đi đến đâu là ở đó có danh hiệu và đây là một sự đe dọa rất lớn với Barca. Các CĐV của Real đều đang kỳ vọng “Người đặc biệt” sẽ giúp đội bóng con cưng của họ tìm lại được những ngày tháng vàng son. Sau 8 vòng đấu đầu tiên, Real của Mourinho đang xếp ở vị trí số một tại La Liga. Ở sân chơi Champions League, “Kền kền trắng” cũng coi như đã đặt một chân vào vòng knock-out khi hạ gục cả Milan, Ajax và Auxerre.
Rạng sáng mai, Barcelona sẽ có trận đấu chênh lệch về đẳng cấp với “tý hon” AS Ceuta tại Copa del Rey. Tuy nhiên, HLV Pep Guardiola vẫn phải lên dây cót yêu cầu các học trò không được chủ quan khinh địch.
“Barca không bao giờ coi thường bất cứ đối thủ nào và Ceuta không phải là ngoại lệ. Có thể trận đấu tại Copa del Rey không quan trọng với AS Ceuta nhưng dù sao đó cũng là một trận đấu nguy hiểm với chúng tôi”.

Đã là trí thức thật thì ai cũng dấn thân

Kim Yến
Sài Gòn tiếp thị
  
 
08:04' PM - Thứ 7 41/11/2010
Minh họa: Hoàng Tường
Thông tin liên quan:
Là phó chủ nhiệm uỷ ban Văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội, hình ảnh của ông gắn liền với không khí nghị trường nóng bỏng. “Ông nghị phản biện nhiều nhất” là cái tên mà nhiều người đã yêu quý gọi ông.

Sự đố kỵ, ích kỷ và vô cảm đang trở thành căn bệnh xã hội trầm kha làm thui chột những giá trị sống quý giá. Ông suy nghĩ gì về điều này?

- Con người sở dĩ trở thành con người và tồn tại xuyên suốt lịch sử, bất chấp sự hữu hạn của cuộc đời mỗi người là nhờ có cộng đồng (hiểu theo nghĩa tập hợp những người cùng chung sống và những thế hệ kế tiếp nhau). Chính vì vậy, tình cảm gia đình, quê hương, đồng loại… ở đâu và bao giờ cũng là những tình cảm tự nhiên đối với mỗi người. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, người Việt ta luôn chia ngọt sẻ bùi, cố kết với nhau, chung sức chung lòng xây dựng nên đất nước này. Trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, nhiều người trong chúng ta từng chứng kiến dân ta đùm bọc nhau như thế nào, xã hội nề nếp như thế nào. Bây giờ, hình như xã hội có phần nhốn nháo, nhiều giá trị sống không còn được coi trọng. Nhìn nhận một cách công bằng thì xã hội ngày xưa đơn giản hơn, còn bây giờ, đời sống phong phú, phức tạp hơn, con người cũng có ý thức về cá nhân nhiều hơn; hạnh phúc được mỗi người phân biệt rạch ròi với những giá trị ảo. Theo tôi, đó là sự phát triển tất yếu từ xã hội thời chiến, trong đó mọi người vừa được bao cấp toàn diện vừa phải cố kết với nhau để tồn tại sang xã hội thời bình có khoảng trời riêng tư cho mỗi cá nhân nhiều hơn và mỗi người, mỗi gia đình cũng phải tự lo cho mình nhiều hơn.

Nhưng quả tình đang có những biến đổi trong tâm lý xã hội làm chúng ta lo lắng. Có lẽ chưa bao giờ ý thức làm giàu bằng mọi giá, nạn bạo lực, sự thờ ơ, vô cảm trước những vấn đề chung, những nỗi đau của đồng loại, sự chối bỏ những giá trị truyền thống, thậm chí sự đổ vỡ niềm tin hiện rõ như bây giờ.

Còn một căn bệnh trầm kha nữa là bệnh nói dối. Theo ông, bệnh này nảy nòi từ đâu?

- Đó là hậu quả của một thời kỳ dài thiếu dân chủ, trong đó nhà quản lý muốn mọi người nghĩ như nhau, nói như nhau, và không muốn nghe ai nói khác. Căn bệnh này làm cho người ta không còn thấy được nhược điểm của bản thân, của đơn vị, địa phương hay xã hội nữa và luôn tự ru ngủ bằng ảo tưởng. Chính nó là một nguyên nhân quan trọng kìm hãm sự phát triển của xã hội. Có thể trong từng thời kỳ đặc biệt của đất nước, nhất là thời chiến tranh, chúng ta chấp nhận không nói hoặc không nói hết về những khó khăn, thất bại cục bộ, để giữ cho được tinh thần, sự nhất trí cao trong xã hội, động viên toàn dân đi đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng trong thời kỳ xây dựng kinh tế, nếu cứ che giấu mãi như chuyện Vinashin, dẫn đến món nợ khổng lồ 86 ngàn tỉ đồng thì tai hại vô cùng. Tuy vậy, thất bại kinh tế vẫn chưa phải điều tai hại nhất. Tai hại nhất là tệ nói dối sẽ làm cho người dân mất dần lòng tin vào lãnh đạo, thậm chí mất cả cảm hứng trước những vấn đề quốc gia đại sự.

Làm thế nào để gầy dựng lại các thang giá trị xã hội đang bị thử thách như thế? Ông nhìn nhận thế nào về vai trò tiên phong của giới trí thức trong vấn đề này?

- Tôi nghĩ trách nhiệm này trước hết là của Đảng. Là đội tiên phong dẫn dắt dân tộc, Đảng phải nhận thức được trách nhiệm nặng nề của mình trước lịch sử, trước nhân dân để có những giải pháp hoàn thiện và phát triển những giá trị sống được hun đúc trong lịch sử dân tộc. Nhưng trước hết, Đảng cần chỉnh đốn đội ngũ của mình, để cán bộ, đảng viên là những tấm gương cho xã hội tin theo. Một loạt các vụ cán bộ tha hoá, biến chất gần đây cho thấy chỉnh đốn đội ngũ là việc cần kíp lắm rồi, nhân dân trông đợi lắm rồi. Tự hoàn thiện mình, Đảng sẽ tiếp tục là nơi tập hợp những người con ưu tú, trong đó có tầng lớp trí thức, dẫn dắt toàn xã hội xây dựng đời sống mới với nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, mang hơi thở của thời đại.

Nổi tiếng là “ông nghị phản biện”, luôn đưa ra những ý kiến thẳng thắn về những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống trước Quốc hội, con người phản biện của ông được hình thành do đâu?

- Chưa bao giờ ý thức làm giàu bằng mọi giá, nạn bạo lực, sự thờ ơ, vô cảm trước những vấn đề chung, những nỗi đau của đồng loại, sự chối bỏ những giá trị truyền thống, thậm chí sự đổ vỡ niềm tin hiện rõ như bây giờ.

Tôi không chịu được khi không phản ánh đúng ý nghĩ của mình. Có thể đó là ảnh hưởng của nghề nghiệp và môi trường sống. Từ bé, tôi đã hay đọc sách văn học cổ và lịch sử. Lớn lên, do nghề nghiệp, càng đọc nhiều hơn, càng nghĩ sâu hơn, tôi càng chịu ảnh hưởng của những câu chuyện, những nhân vật, những bài học trong sách của người xưa. Về môi trường sống, tôi may mắn được gặp nhiều người có cá tính, nên cá nhân luôn có sự tỉnh thức. Vả lại, tư thế của một trí thức khiến tôi luôn cảm thấy xấu hổ nếu nói sai sự thật, nói hùa theo người khác. Nhưng để có thể bày tỏ chủ kiến trước Quốc hội, để ý kiến mình có tính thuyết phục, tôi luôn tìm hiểu kỹ vấn đề, nhất là tham khảo ý kiến của các chuyên gia, nhìn vấn đề ở nhiều góc độ, để ý kiến của mình khách quan, công bằng, càng tiệm cận với lẽ phải càng tốt. Đặc biệt là phải có động cơ đúng, mang tính xây dựng. Khi người đại biểu lấy quyền lợi chung để định hướng cho mình thì sẽ có cách nghĩ đúng đắn và thái độ đúng mực.

Có bao giờ ông lâm vào thế khó xử?

- Khó xử thì không nhưng khó khăn thì có. Ví dụ, khi phải trả lời phỏng vấn trực tiếp của các phóng viên nước ngoài về một số vấn đề “nhạy cảm” như vụ PCI, dự án khai thác bauxite, dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam… Cách giải quyết của tôi là trả lời đúng với quan điểm của mình như đã phát biểu trước Quốc hội, vì ý kiến của mình trước Quốc hội là ý kiến được chuẩn bị kỹ và đã được gần 500 đại biểu cùng giới báo chí và cử tri thẩm định.

Động lực nào thôi thúc ông luôn đứng ở đầu sóng ngọn gió như thế? Ông nhìn nhận như thế nào về trách nhiệm của người đại biểu nhân dân?

- Động lực thôi thúc tôi là trách nhiệm của một trí thức, một đảng viên, một đại biểu dân cử. Tôi tin khi nói lên sự thật, những người có tâm sẽ đánh giá đúng, chẳng ghét bỏ gì mình. Còn nếu có ai không bằng lòng, tôi cũng phải chấp nhận thôi. Muốn vừa lòng tất cả mọi người thì không làm được việc gì nên hồn cả. Vả lại, tôi luôn luôn ý thức rằng phát biểu ý kiến phải có tổ chức, phải phù hợp với quyền hạn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội. Khi Quốc hội đã ra nghị quyết thì đại biểu phải chấp hành. Như chuyện mở rộng Hà Nội chẳng hạn, mặc dù đại biểu có thể không tán thành nhưng khi đã có nghị quyết thì về tiếp xúc cử tri cũng không thể nói trái nghị quyết được.

Những năm tháng học tập ở Nga dường như đã hình thành nên tính cách của ông và lối giảng dạy, nghiên cứu khoa học độc lập, có tranh biện?

- Tư thế của một trí thức khiến tôi luôn cảm thấy xấu hổ nếu nói sai sự thật, nói hùa theo người khác.

Tuổi thơ vất vả đã tập cho tôi thói quen đương đầu với khó khăn. Tôi đã từng đi bán báo, bán lạc luộc, ra sông Hồng vớt củi mỗi mùa lũ. Thời phổ thông, tôi là học sinh tham gia cả đội tuyển văn và đội tuyển toán của trường. Vào đại học, tôi học khoa ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội và chọn chuyên ngành ngôn ngữ học. Những năm tháng chiến tranh rèn cho tôi sức chịu đựng, ý chí vươn lên và sự trung thành với lý tưởng. Bốn năm sơ tán và mười năm tình nguyện công tác miền núi cho tôi rất nhiều kiến thức thực tế. Nói tóm lại, mỗi thời kỳ đều đóng góp một phần rất quan trọng.
TS Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội:

“Một người trung thực, thẳng thắn, trí tuệ, có văn hoá nền rất tốt. Một đại biểu Quốc hội giàu kinh nghiệm, có tâm với công việc, có tâm với những vấn đề của đất nước”.

PGS.TS Nguyễn Văn Hiệp, ĐH Quốc gia Hà Nội:

“Tôi nhớ mãi thời đi học nghèo khó, sau giờ học, thầy bao giờ cũng giữ lại, nấu cơm cho tôi ăn, rồi hai thầy trò cùng nhau rửa bát… Thầy có một tình yêu thương đặc biệt với học trò, ân cần, chu đáo, đầy trách nhiệm. Bao giờ thầy cũng hướng đến những gì tốt đẹp nhất cho mọi người. Tôi không hiểu thầy lấy đâu ra thời gian để có thể làm nhiều việc đến thế, mà việc nào cũng đến nơi đến chốn. Thầy thực sự là tấm gương mà tôi nương theo, để chống chọi với cuộc đời, để giữ lại những gì tốt đẹp cho giáo dục”.


Những năm tháng sống ở Nga, những đợt làm việc dài ngày ở Canada, Pháp và những hoạt động đối ngoại của trường cũ hay của cơ quan Quốc hội mà tôi tham gia sau này cũng tác động sâu sắc đến cách sống của tôi. Điều tôi học được ở các bạn nước ngoài là tính thẳng thắn, tư duy độc lập và sự tôn trọng ý kiến riêng, cuộc sống riêng của người khác.

Theo ông, để tập hợp được đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, lãnh đạo cần làm gì?

- Chúng ta hãy rút ra những bài học từ Bác Hồ. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đặc biệt là từ khi thành lập nước, Bác đã tập hợp được những trí thức tiêu biểu của dân tộc, phát huy trí tuệ của họ, rèn luyện họ thành những người trí thức cách mạng có đóng góp xuất sắc cho sự nghiệp vệ quốc và kiến quốc. Trí thức theo Bác là vì họ tin theo sự nghiệp chính nghĩa cứu dân cứu nước của Bác, tâm phục trí tuệ, đức độ và tấm lòng liên tài thành thực của Bác. Làm theo được Bác, chắc chắn chúng ta tập hợp được những người có tâm có tài vốn không thiếu trong số con Lạc cháu Hồng ngày nay.

Giữa tâm với tài thì tâm là gốc. Đối với người lãnh đạo lại càng như vậy. Có tâm thì biết chọn việc đúng, biết nghe lời nói phải và biết trọng hiền tài. Không có tâm thì chỉ chăm chăm nghĩ đến cái lợi, chỉ chọn việc đem lại lợi lộc cho mình, chỉ chọn những kẻ a dua xu nịnh, và bịt tai trước mọi lời nói phải.

Ông quan niệm như thế nào về người trí thức dấn thân?

- Thực ra, đã là trí thức thật thì ai cũng dấn thân. Có người dấn thân cho các sáng tạo, sáng chế, phát minh. Có người dấn thân cho xã hội. Sự dấn thân nào cũng đòi hỏi trí tuệ và đức hy sinh. Không có trí tuệ thì sẽ chọn sai đường. Không dám hy sinh thì không thể đi đến cùng con đường đã chọn.

Nhìn lại đời mình, ông đã đạt được mục đích sống mà mình chọn lựa chưa? Gia đình có chia sẻ nhiều với chuyện dấn thân vào nghị trường của ông không?

- Từ nhỏ, tôi luôn mơ ước mình sẽ trở thành người có tiếng nói trong khoa học, trong xã hội. Còn trong cuộc sống riêng, cũng như tất cả mọi người, tôi mơ ước một gia đình hạnh phúc. “Bà đầm” nhà tôi là một phó giáo sư, cũng bảo vệ luận án tiến sĩ ở nước ngoài và đang công tác ở một viện khoa học nên rất ủng hộ tôi phát huy năng lực của mình, đóng góp cho cái chung. Còn mẹ tôi, lúc đầu cũng băn khoăn lắm, bà thường bảo: “Anh mà nói thẳng như thế, sợ người ta mất lòng”. Vợ con tôi luôn chia sẻ, vì cho rằng việc gì đúng phải làm. May mắn nhất cho tôi là các con học hành đàng hoàng, có công ăn việc làm tử tế. Tôi chỉ còn một điều đang “mộng” là được thăng lên chức ông!


Nguyên văn bài phát biểu của ĐB Nguyễn Minh Thuyết tại kỳ họp Quốc hội ngày 1/11/2010

… tôi trân trọng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức để Quốc hội biểu quyết thành lập Ủy ban lâm thời điều tra trách nhiệm của các thành viên Chính phủ trong vụ việc này. Trên cơ sở đó vào thời gian cuối kỳ họp bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ có liên quan. Để tạo điều kiện cho công tác điều tra của Ủy ban lâm thời, tôi đề nghị Quốc hội tạm đình chỉ chức vụ của các vị cần được điều tra.

Kính thưa Quốc hội.

Theo Báo cáo của Chính phủ, năm 2010 này nước ta đã đạt và vượt 16/21 chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Cũng như đông đảo người dân tôi rất hân hoan trước tin vui này và sự trân trọng những kết quả đã đạt được. Tuy nhiên tôi cũng vô cùng lo lắng trước những khuyết điểm nghiêm trọng trong điều hành nền kinh tế, phân tích chưa sâu, chưa đủ cụ thể và nghiêm khắc. Trong thời gian có hạn tôi chỉ tập trung nói về vụ Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam Vinashin sụp đổ. Vâng, thực sự nó đã sụp đổ, mặc dù chúng ta có thể dùng từ ngữ nhẹ nhàng hơn theo truyền thống tu từ của mình. Tập đoàn Vinashin sụp đổ đã trút lên vai đồng bào món nợ khổng lồ không dưới 100.000 tỷ đồng. Món nợ mà một tỉnh thu nhập cỡ 1000 tỷ đồng một năm phải làm quần quật không mua sắm, ăn uống, may mặc gì suốt, một thế kỷ mới trả nổi. Đối với đồng bào nhiều nơi nhất là nông thôn. miền núi thì trả món nợ khổng lồ này có nghĩa là chậm làm đường, làm cầu, xây trường, xây bệnh viện v.v… những nhu cầu rất thiết yếu của cuộc sống đồng bào. Sai phạm trong chỉ đạo điều hành thì đã rõ. Nhưng có một câu hỏi đến nay vẫn chưa có câu trả lời là ngoài lãnh đạo Vinashin còn những ai phải chịu trách nhiệm về những sai phạm này.

Báo cáo của Chính phủ cho biết Chính phủ có trách nhiệm và đã nghiêm túc kiểm điểm, nhưng cụ thể như thế nào? Theo tôi hiểu trong trường hợp này các thành viên Chính phủ có liên quan phải kiểm điểm và nhận kỷ luật trước Quốc hội – cơ quan đại diện nhân dân cả nước bầu ra mình. Không thể chỉ nhận khuyết điểm một cách chung chung và tuyên bố đã kiểm điểm nội bộ là rũ xong trách nhiệm.

Vụ việc này nhắc tôi nhớ đến vụ án Lã Thị Kim Oanh ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cách đây hơn 6 năm. Vì nuông chiều, luôn áp dụng những siêu cơ chế cho công ty của Lã Thị Kim Oanh dẫn đến thất thoát trên 100 tỷ đồng mà một vị Bộ trưởng đang rất được lòng dân, được lòng đại biểu Quốc hội đã phải từ chức và 2 vị Thứ trưởng đã phải ra trước vành móng ngựa. Vinashin là một kiểu Lã Thị Kim Oanh phóng đại cỡ 1000 lần. Thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm nay, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã nhận định có dấu hiệu bao che cho những sai trái, vi phạm pháp luật của Vinashin, làm thiệt hại lớn đến tiền và tài sản Nhà nước. Nhưng ai bao che? Bao che thế nào? Vì nguyên nhân gì? Nhằm mục đích gì và phải chịu trách nhiệm ra sao thì Ủy ban Tư pháp chưa có điều kiện kết luận. Thế mà nếu Quốc hội không làm rõ được điều này thì không hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng, trước dân.

Vì vậy, căn cứ Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, tôi trân trọng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức để Quốc hội biểu quyết thành lập Ủy ban lâm thời điều tra trách nhiệm của các thành viên Chính phủ trong vụ việc này. Trên cơ sở đó vào thời gian cuối kỳ họp bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ có liên quan. Để tạo điều kiện cho công tác điều tra của Ủy ban lâm thời, tôi đề nghị Quốc hội tạm đình chỉ chức vụ của các vị cần được điều tra.

Thưa quý vị Chủ tọa,

Thưa quý vị đại biểu khách mời,

Nói những điều trên tôi cảm thấy rất đau xót và khó khăn, nhưng chúng ta có xử lý nghiêm vụ việc này thì mới thể hiện được sự công minh của pháp luật, hạn chế được những dự án làm ăn phá của bốc trời, đưa hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước vào quỹ đạo lành mạnh, đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững và lấy lại được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng.

Thưa quý vị, hôm nay tôi đọc một bài đã chuẩn bị sẵn là để ngay sau buổi họp này trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội như một kiến nghị chính thức của đại biểu. Trân trọng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội khẩn trương xem xét và cho biểu quyết về kiến nghị của tôi. Xin trân trọng cảm ơn.

Nội dung bản kiến nghị
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

____________
Hà Nội, ngày 1 tháng 11 năm 2010
Kính gửi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tôi là Nguyễn Minh Thuyết, đại biểu Quốc hội khoá XII, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lạng Sơn, xin gửi đến các vị Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội lời chào trân trọng, kính đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét kiến nghị trình bày dưới đây.
Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2010 này, nước ta đã đạt 16/21 chỉ tiêu mà Quốc hội đề ra. Cũng như đông đảo người dân, tôi rất hân hoan trước tin vui này và hết sức trân trọng những kết quả đã đạt được.
Tuy nhiên, tôi cũng vô cùng lo lắng trước những khuyết điểm nghiêm trọng trong điều hành nền kinh tế mà báo cáo của Chính phủ phân tích chưa sâu, chưa đủ cụ thể và nghiêm khắc.
Trong khuôn khổ kiến nghị này, tôi chỉ tập trung nói về vụ Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) sụp đổ, trút lên vai đồng bào món nợ khổng lồ không dưới 100.000 tỷ đồng, món nợ mà một tỉnh thu nhập cỡ 1000 tỷ đồng / năm phải làm quần quật, không mua sắm, ăn uống, may mặc gì suốt một thế kỷ mới trả nổi. Sai phạm trong chỉ đạo, điều hành thì đã rõ. Nhưng có một câu hỏi đến nay vẫn chưa có câu trả lời là: “Ngoài lãnh đạo Vinashin, còn những ai phải chịu trách nhiệm về những sai phạm này?”.
Báo cáo của Chính phủ cho biết “Chính phủ có trách nhiệm” và “đã nghiêm túc kiểm điểm”. Nhưng cụ thể như thế nào? Theo tôi hiểu, trong trường hợp này, các thành viên Chính phủ có liên quan phải kiểm điểm và nhận kỷ luật trước Quốc hội, cơ quan đại diện nhân dân cả nước bầu ra mình; không thể chỉ nhận khuyết điểm một cách chung chung và tuyên bố đã kiểm điểm nội bộ là rũ xong trách nhiệm.
Vụ việc này nhắc tôi nhớ đến vụ án Lã Thị Kim Oanh ở Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cách đây hơn 6 năm. Vì nuông chiều, luôn áp dụng những “siêu cơ chế” cho công ty của Lã Thị Kim Oanh, dẫn đến thất thoát trên 100 tỷ đồng mà một vị Bộ trưởng đang rất được lòng dân, được lòng đại biểu Quốc hội đã phải từ chức và hai vị Thứ trưởng phải ra trước vành móng ngựa.
Vinashin là một kiểu Lã Thị Kim Oanh phóng đại cỡ 1000 lần. Thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác phòng chống tham nhũng năm nay, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã nhận định "có dấu hiệu bao che cho những sai trái, vi phạm pháp luật của Vinashin, làm thiệt hại lớn đến tiền và tài sản nhà nước". Nhưng ai bao che, bao che thế nào, vì nguyên nhân gì, nhằm mục đích gì và phải chịu trách nhiệm thế nào thì Ủy ban Tư pháp chưa có điều kiện kết luận. Thế mà Quốc hội không làm rõ được điều này thì không hoàn thành nhiệm vụ trước Đảng, trước dân.
Vì vậy, căn cứ Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, tôi trân trọng đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức để Quốc hội biểu quyết thành lập Uỷ ban lâm thời điều tra trách nhiệm của các thành viên Chính phủ trong vụ việc này, trên cơ sở đó, vào thời gian cuối kỳ họp, bỏ phiếu tín nhiệm Thủ tướng và một số thành viên Chính phủ có liên quan.
Để tạo điều kiện cho công tác điều tra của Uỷ ban lâm thời, tôi đề nghị Quốc hội tạm đình chỉ chức vụ của các vị cần được điều tra.
Thưa các vị Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Nói những điều trên, tôi cảm thấy rất đau xót và khó khăn. Nhưng chúng ta có xử lý nghiêm vụ việc này thì mới thể hiện được sự công minh của pháp luật, hạn chế được những dự án làm ăn phá của, bốc trời, đưa hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước vào quỹ đạo lành mạnh, đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững và lấy lại được niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng.
Trân trọng đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khẩn trương xem xét và cho biểu quyết về kiến nghị của tôi.
Xin cảm ơn.
Đại biểu Quốc hội
.


Người đẹp Hoa hậu Quốc tế vui vẻ trong tiệc đấu giá từ thiện
(Dân trí) - Thục Quyên của Việt Nam diện váy ngắn gợi cảm cùng 67 cô gái đẹp tham dự bữa tiệc đấu giá từ thiện diễn ra tối 5/11 vừa qua tại Thành Đô, Trung Quốc.
 
 
Thục Quyên của Việt Nam
 
HH Serbia và Việt Nam
 

Nepal


Người đẹp quây quần trong tiệc đấu giá từ thiện

Hh Phillippines và Serbia


Slovakia


Dominica


Phần Lan

Jamaica


Thái Lan

 


Venezuela


Nhật Bản


Brazil và Thái Lan


Thái Lan


Hi Lạp
 

Canada


Mỹ


Costa Rica


Martinique


Pháp




Paraguay


Tây Ban Nha


Trung Quốc


Đài Loan


Thụy Điển, Bỉ


HH Ấn Độ giới thiệu bức tranh đấu giá của cô


Anh


Sri Lanka


Malaysia

Hong Kong


Séc


Macao
 

Thục Quyên trong trang phục váy dạ hội


Nissan vừa giới thiệu thông tin và hình ảnh chi tiết về phiên bản GT-R 2012, mẫu xe dự kiến có mặt trên thị trường Nhật Bản vào ngày 17/11 tới với giá khoảng 107.110 USD.
• BMW serie 6 cửa cắt kéo 11:32, 18/10/2010
So với thế hệ trước, Nissan GT-R 2012 có nhiều thay đổi, công suất và tính năng vận hành được cải thiện, lượng tiêu thụ nhiên liệu tốt hơn cùng không gian nội thất tươi mới.

Bên cạnh đó, Nissan còn bổ sung thêm 2 phiên bản cho dòng sản phẩm GT-R bao gồm: Club Track Edition và EGOIST.

Mỗi phiên bản trên đều có một mục đích rõ ràng. Nissan GT-R Club Track 2012 được phát triển dành riêng cho sử dụng trên đường đua, trong khi đó EGOIST lại hoàn toàn khác biệt, dành cho công việc hàng ngày với hệ thống âm thanh cao cấp Bose, cùng tùy chọn 20 gam màu nội thất.

Về tính năng vận hành, các phiên bản Nissan GT-R 2012 được trang bị động cơ có công suất 530 mã lực tại 6.400 vòng/phút và mô-men xoắn 612 Nm tại 3.200 - 6.000 vòng/phút.

Nissan GT-R 2012 sẽ có mặt trên thị trường Bắc Mỹ, châu Âu và một số khu vực khác vào tháng 2/2011 với 6 màu ngoại thất để khách hàng lựa chọn.
Nissan Yuki-onna – xe xanh hiện đại và thanh lịch
Thư mục: Ô tô . Ngày gửi: Thứ bảy, 11:43, 6/11/2010 . 0phản hồi
Được thiết kế bởi Alfredo Marín Garcia, một sinh viên của IED Barcelona, Nissan Yuki-onna là một mẫu xe đua 4 chỗ ngồi 4 cửa mang đầy vẻ hiện đại và thanh lịch.
Nissan Yuki-onna thực sự mang trong mình nó một vẻ đẹp thanh lịch và quý phái nhờ vào sự kết hợp hài hòa giữa những đường cong những đường đa giác. Thêm vào đó việc sử dụng một cách hợp lý sự đan xen giữa các mảng màu đen trắng cũng làm tăng thêm vẻ đẹp thanh lịch của chiếc xe. Sự xuất hiện của nhiều họa tiết mang hình đôi cánh trên cửa trước, bộ đèn trước và đèn hậu mang lại cho chiếc xe nét thanh nhã và bay bổng.
Chiếc xe mang nhiều nét thiết kế mới lạ ít thấy ở những bản thiết kế xe khác. Cụm đèn trước được tích hợp trên vòng cung bánh xe được tạo hình theo hình lục giác với bộ pha kết hợp giữa hai màu xanh dương và màu đỏ tạo một nét nhấn rất đẹp mắt khi nhìn từ phía trước. Cặp đèn hậu và bộ là zăng có kiểu dáng rất đặc biệt chắc chắn sẽ thu hút rất nhiều ánh nhìn từ phía sau.

Vẻ đẹp của Nissan Yuki-onna được thể hiện rõ nét khi nhìn từ hai bên hông xe. Thân xe được đặt rất thấp giữa 4 vòng cung bánh xe lớn cùng đường trần xe thoải về phía sau thể hiện đường nét của một chiếc xe thể thao thực thụ. Phần đuôi xe được tác giả xử lý rất khéo léo và đơn giản với hai đường vát sắc cạnh tạo vẻ thanh thoát và duyên dáng. Các tấm tế bào quang điện được gắn trên nóc xe không chỉ giúp cung cấp thêm năng lượng cho bộ pin mà còn có tác dụng trang trí phá vỡ sự nhàm chán trên nóc xe.

Nissan Yuki-onna sẽ là một chiếc xe xanh hoạt động nhờ 4 động cơ điện được tích hợp trên 4 bánh. Thân xe được kết cấu từ sợi carbon nhằm giảm thiểu khối lượng.
 
Vòng 11 giải Ngoại hạng Anh:
Đại chiến Anfield!
TTO - Cuối tuần này, mọi con mắt của giới hâm mộ sẽ đổ dồn cả về sân Anfield để chứng kiến cuộc thư hùng nảy lửa giữa hai đại gia Liverpool và Chelsea - trận cầu được chờ đợi nhất vòng 11 giải Ngoại hạng.
Gerrard (áo đỏ) và A.Cole - ai sẽ thắng trong cuộc đối đầu vào chủ nhất tới? - Ảnh: AP 

Sau những màn dạo đầu, cuộc đua tại giải Ngoại hạng Anh mùa bóng 2010-2011 đã bắt đầu nóng lên khi các đội bóng lớn liên tiếp đụng độ nhau. Ở vòng đấu này, Liverpool và Chelsea sẽ giáp mặt nhau trên sân Anfield - kết quả trận đấu sẽ ảnh hưởng nhiều đến cuộc đua tranh ngôi vô địch mùa bóng năm nay.
Đối với Liverpool, sau sự khởi đầu bết bát, cánh cửa vô địch gần như đã khép lại với thầy trò HLV Roy Hodgson khi họ bị đội đầu bảng bỏ xa đến 13 điểm. Có thể "quỷ đỏ" không còn mơ đến chức vô địch nhưng họ vẫn còn một mục tiêu rất thiết thực để chiến đấu, đó là top 4 - vị trí giúp họ được dự Champions League mùa bóng tới.
Hiện tại, niềm tin và sự hưng phấn đã trở lại với các cầu thủ Liverpool khi họ bắt đầu trở lại với mạch chiến thắng. Trong ba trận đấu gần đây (gặp Blackburn, Bolton và Napoli), dù thi đấu chưa được tốt nhưng Liverpool vẫn rời sân với nụ cười chiến thắng, điều mà họ rất ít khi làm được kể từ đầu mùa giải.
Thật không may cho "quỷ đỏ" khi mới vừa thăng hoa, họ lại đụng ngay Chelsea - đội bóng đang thể hiện một phong độ rất ấn tượng cả ở giải Ngoại hạng lẫn Champions League. Giữa tuần qua, đội bóng thành London sớm khép lại vòng đấu bảng Champions League với chiến thắng đậm 4-1 trước Spartak Moskva - chiến thắng đưa họ vào vòng knock-out sớm hai lượt trận.
Champions League đã xong, bây giờ The Blues sẽ quay sang giải quyết Premiership (giải Ngoại hạng). Sau 10 vòng đấu, Chelsea đang có 25 điểm, hơn hai đội xếp phía sau Arsenal, M.U mỗi đội 5 điểm.
Đây là một khoảng cách "lớn" nhưng vẫn chưa đủ an toàn, bởi mùa giải mới chỉ đi qua được hơn 1/4 chặng đường. Hơn nữa, thời gian sắp tới (cuối tháng 12 đầu tháng 1-2011) sẽ là giai đoạn cao trào của giải Ngoại hạng với mật độ 3 ngày/trận.
Vì thế, để giữ vững được ngôi đầu sau giải đoạn "khốc liệt" đó, thầy trò HLV Ancelotti cần phải tích lũy điễm ngay từ bây giờ khi họ đang thảnh thơi sau khi sớm hoàn tất mục tiêu tại đấu trường Champions League.
Xét về lực lượng và phong độ, Liverpool kém hơn so với đội bóng thành London, nhưng bù lại họ được chơi trên thánh địa Anfield. Muốn thắng, Liverpool phải phong tỏa được Drogba - chân sút số 1 của The Blues. Còn đối với Chelsea, họ phải khóa chặt được nhạc trưởng Gerrard - cầu thủ vừa lập hat-trick giúp Liverpool hạ Napoli 3-1 tại đấu trường Europa League.
Không Nani (áo đỏ) - M.U vẫn vượt trội so với Wolverhampton - Ảnh: AFP

Chính những chiến thắng này đã kéo Liverpool thoát khỏi khủng hoảng để trở lại với cuộc đua giành vé dự Champions League mùa bóng tới. Hiện tại, Liverpool đang kém đội xếp thứ tư Man City 5 điểm - một khoảng cách hoàn toàn có thể san lấp nếu họ tiếp tục thi đấu tốt như thời gian vừa qua.
Chelsea đụng Liverpool, M.U và Arsenal sẽ có cơ hội để bứt lên khi chỉ gặp những đối thủ yếu: trên sân nhà. M.U sẽ gặp đội đang đứng áp chót bảng xếp hạng Wolverhampton trên thánh địa Old Trafford, còn Arsenal sẽ đón tiếp đàn em Newcastle trên sân nhà Emirates.
Những trận đấu quá chênh lệch và nếu tiếp tục thể hiện được phong độ như thời gian vừa qua, việc giành trọn ba điểm hoàn toàn nằm trong tầm tay của hai ông lớn này. 
Nếu thực hiện được điều đó, và cùng với việc Chelsea không vượt qua được Liverpool trên sân Anfield (khả năng này rất lớn), M.U và Arsenal sẽ thu hẹp khoảng cách với đối thủ này trên bảng tổng sắp, qua đó sáng lên cơ hội trong cuộc đua tranh ngôi vô địch mùa bóng năm nay.
Chủ Nhật, 31/10/2010, 08:41 (GMT+7)
Hoa hậu Thế giới 2010: Một người hướng ngoại
TTO -  Thiếu nữ Alexandria Mills 18 tuổi đã trở thành người phụ nữ đẹp nhất hành tinh trong đêm chung kết Hoa hậu Thế giới 2010 vào tối 30-10 vừa qua.
Alexandria Mills không giấu nổi nước mắt hạnh phúc khi đăng quang - Ảnh: AFP
Tân hoa hậu Thế giới có chiều cao 1m75 cùng số đo khá chuẩn: 86,5 - 61- 89, tên của cô luôn nằm trong danh sách đặt cược của nhiều nhà cái, cũng như trên bảng xếp hạng của những website sắc đẹp uy tín cho vị trí những ứng viên dẫn đầu. Trong suốt quá trình diễn ra cuộc thi, Alexandria Mills luôn tỏa sáng và đạt thứ hạng cao trong hai phần thi quan trọng là Người đẹp bãi biển (hạng 2) và Siêu mẫu (hạng 3).
Trong suốt quá trình cuộc thi diễn ra, Mills tỏ ra là một cô gái giản dị và nữ tính. Chia sẻ cảm xúc về khoảnh khắc được nhận vương miện từ HHTG 2009 Kaiane Aldorino, Mills cho biết "một tháng trời tham gia cuộc thi cùng 114 người đẹp khác đã trở thành dấu ấn lớn trong cuộc đời tôi".
Alexandria Mills đến từ bang Kentucky của miền nam nước Mỹ và chỉ vừa tốt nghiệp trung học phổ thông. Hiện cô là một người mẫu chuyên nghiệp của công ty Elite Models (Mỹ) nổi tiếng. Trong bài phỏng vấn trên trang chủ của cuộc thi, Mills đã tự miêu tả bản thân là một cô gái có tư duy tích cực, khá ngẫu hứng, cởi mở và là một người hướng ngoại. Thời gian rảnh, Mills thích đi du lịch hoặc chơi kèn kiểu Pháp. Cô cũng đặc biệt đam mê ca hát.
Trong một lần phỏng vấn trên tạp chí, ước mơ của cô có thể sẽ làm nhiều vị phụ huynh có thêm niềm hi vọng: cô mong muốn trở thành giáo viên để có thể giúp trẻ em chuẩn bị cho những điều tốt nhất cho tương lai của chúng. Phương châm sống của cô gái trẻ này là "Những điều tốt nhất trong cuộc sống xứng đáng để chờ đợi, để tranh đấu, để tin tưởng, và đừng bao giờ để chúng vuột mất".
Như vậy, sau 20 năm thì nước Mỹ mới có một chiếc vương miện Hoa hậu Thế giới tiếp theo. Hiện tại nước Mỹ đã sở hữu ba chiếc vương miện Hoa hậu Thế giới là Marjorie Wallace (bang Indiana, 1973), Gina Tolleson (bang Nam Carolina, 1990) và  mới nhất là Alexandria Mills (bang Kentucky, 2010).
Mỹ đã tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới 59 lần, bắt đầu từ năm 1951. Trên bảng xếp hạng thành tích các quốc gia tại đấu trường Hoa hậu Thế giới của Globalbeauties thì Mỹ là nước mạnh thứ hai của cuộc thi này, chỉ sau Ấn Độ (nhưng năm nay đại diện Ấn Độ đã thậm chí không có tên trong vòng bán kết hay lọt vào Top 3 của bất kỳ phần thi phụ nào).
Cuộc thi Hoa hậu Thế giới vốn không phổ biến lắm ở Mỹ - nơi mà cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ được nhiều người dân biết đến hơn. Những người đẹp đại diện Mỹ tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới thường là do chọn lựa từ các cuộc thi quốc gia trước đó hoặc do đơn vị giữ bản quyền cử đi thi.
Dưới đây là một số hình ảnh trong cuộc thi của tân Hoa hậu Thế giới:
Nước mắt hạnh phúc lăn trên gương mặt Alexandria Mills - Ảnh: Getty Images
Nụ cười tươi tắn của tân Hoa hậu thế giới - Ảnh: AFP
Alexandria Mills xúc động với sự chiến thắng bất ngờ - Ảnh: AFP
Alexandria Mills chúc mừng Á hậu 1 Emma Wareus của Botswana  - Ảnh: AFP
Alexandria Mills (bên trái) về nhì cuộc thi Hoa hậu Bãi biển - Ảnh: MissWorld.tv
Alexandria Mills (bên trái) vào Top 3 phần thi phụ Hoa hậu thời trang - Ảnh: MissWorld.tv
Trong
 bài viết này, Tập đoàn New London trình bày tổng quan về lý thuyết của các kết nối giữa các môi trường xã hội thay đổi đối mặt với học sinh và giáo viên và phương pháp tiếp cận mới để sư phạm biết chữ mà họ gọi là "multiliteracies." The authors argue that the multiplicity of communications channels and increasing cultural and linguistic diversity in the world today call for a much broader view of literacy than portrayed by traditional language-based approaches. Multiliteracies, according to the authors, overcomes the limitations 
of traditional approaches by emphasizing how negotiating the multiple lingustic and cultural differences in our society is central to the pragmatics of the working, civic, and private lives of students.
 Các tác giả cho rằng tính đa dạng của các kênh truyền thông và ngày càng tăng và ngôn ngữ đa dạng văn hóa trong thế giới ngày nay gọi cho một rộng hơn xem nhiều phái hơn bởi ngôn ngữ mô tả dựa trên phương pháp tiếp cận truyền thống. Multiliteracies, theo các tác giả, khắc phục những hạn chế của phương pháp tiếp cận truyền thống của nhấn mạnh sự khác biệt như thế nào đàm phán nhiều lingustic và văn hóa trong xã hội của chúng tôi là trung tâm của pragmatics của làm việc, công dân, và cuộc sống riêng tư của học sinh. The authors maintain that the use of multiliteracies approaches to pedagogy will enable students to achieve the authors' twin goals for literacy learning: creating access to the evolving language of work, power, and community, and fostering the critical engagement necessary for them to design their social futures and achieve success through fulfilling employment. 
Các tác giả cho rằng việc sử dụng các phương pháp tiếp cận multiliteracies sư phạm sẽ giúp sinh viên đạt được 'mục tiêu hai tác giả cho việc học biết chữ: Tạo truy cập vào các ngôn ngữ phát triển của công việc, quyền lực, và cộng đồng, và bồi dưỡng các cam kết quan trọng cần thiết cho họ để thiết kế tương lai của xã hội và đạt được thành công thông qua thực hiện việc làm.
(pp. 60-92) (Trang 60-92)


If it were possible to define generally the mission of education, one could say that its fundamental purpose is to ensure that all students benefit from learning in ways that allow them to participate fully in public, community, and economic life. Nếu có thể định nghĩa nói chung nhiệm vụ của giáo dục, người ta có 
thể nói rằng mục đích cơ bản của nó là đảm bảo rằng tất cả học sinh được hưởng lợi từ việc học tập bằng cách cho phép họ tham gia đầy đủ trong công chúng, cộng đồng, và đời sống kinh tế. Literacy pedagogy is expected to play a particularly important role in fulfilling this mission. Biết chữ sư phạm sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Pedagogy is a teaching and learning relationship that creates the potential for building learning conditions leading to full and equitable social participation. Sư phạm là một mối quan hệ giảng dạy và học tạo ra những tiềm năng để xây dựng các điều kiện học tập dẫn đến công bằng xã hội tham gia và đầy đủ. Literacy pedagogy has traditionally meant teaching and learning to read and write in page-bound, official, standard forms of the national language.Biết chữ có nghĩa là phương pháp sư phạm truyền thống dạy và học đọc và viết vào trang giới hạn, chính thức, hình thức tiêu chuẩn của ngôn ngữ quốc gia. Literacy pedagogy, in other words, has been a carefully restricted project - restricted to formalized, monolingual, monocultural, and rule-governed forms of language.Biết chữ sư phạm, nói cách khác, đã được một giới hạn dự án một cách cẩn thận - giới hạn, đơn ngữ, monocultural, và quy tắc chi phối chính thức hóa các hình thức của ngôn ngữ.
In this article, we 
attempt 
to broaden this understanding of literacy and literacy teaching and learning to include negotiating a multiplicity of discourses. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng để mở rộng sự hiểu biết của biết chữ và biết chữ dạy và học để bao gồm đàm phán một đa dạng của các giảng. We seek to highlight two principal aspects of this multiplicity. First, we want to extend the idea and scope of literacy pedagogy to account for the context of our culturally and linguistically diverse and increasingly globalized societies, for the multifarious cultures that interrelate and the plurality of texts that circulate. Chúng tôi tìm kiếm để làm nổi bật hai khía cạnh chủ yếu của đa dạng này. Đầu tiên chúng tôi muốn mở rộng phạm vi ý tưởng và phương pháp sư phạm cho phái vào tài khoản cho các bối cảnh xã hội của chúng tôi về văn hóa và ngôn ngữ đa dạng và toàn cầu hóa ngày càng tăng đối với các nền văn hóa phong phú và đa số là interrelate của các văn bản lưu hành. Second, we argue that literacy pedagogy now must account for the burgeoning variety of text forms associated with information and multimedia technologies. Thứ hai, chúng tôi cho rằng bây giờ biết chữ sư phạm phải chiếm đa dạng đang phát triển của các hình thức văn bản liên quan và đa phương tiện công nghệ thông tin. This includes understanding and competent control of representational forms that are becoming increasingly significant in the overall communications environment, such as visual images and their relationship to the written word - for instance, visual design in desktop publishing or the interface of visual and linguistic meaning in multimedia. Indeed, this second point relates closely back to the first; the proliferation of communications channels and media supports and extends cultural and subcultural diversity.Điều này bao gồm sự hiểu biết và kiểm soát có thẩm quyền của các hình thức biểu hiện mà đang trở nên ngày càng quan trọng trong môi trường truyền thông tổng thể, chẳng hạn như hình ảnh trực quan và mối quan hệ của họ đến từ bản - ví dụ, hình ảnh thiết kế trong việc xuất bản trên máy tính hoặc giao diện của ngôn ngữ và ý nghĩa trực quan trong đa phương tiện . Thực ra, điều này liên quan 
chặt chẽ điểm thứ hai trở lại đầu tiên, sự gia tăng của các kênh truyền thông và phương tiện truyền thông hỗ trợ và mở rộng và đa dạng văn hóa subcultural. As soon as our sights are set on the objective of creating the learning conditions for full social participation, the issue of differences becomes critically important. Ngay sau khi các điểm tham quan của chúng tôi được thiết lập trên các mục tiêu của việc tạo ra các điều kiện học tập cho sự tham gia của toàn xã hội, vấn đề của sự khác biệt trở nên quan trọng. How do we ensure that differences of culture, language, and gender are not barriers to educational success? Làm thế nào để chúng tôi đảm bảo rằng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, và giới tính không phải là rào cản đối với giáo dục thành công? And what are the implications of these differences for literacy pedagogy? Và sư phạm văn những gì đang có những tác động của những sự khác biệt?

This question of differences has become a main one that we must now address as educators. Câu hỏi về sự khác biệt đã trở thành một trong những chính mà chúng ta bây giờ phải giải quyết như giáo dục. And although numerous theories and practices have been developed as possible responses, at the moment there seems to be particular anxiety about how to proceed. Và mặc dù rất nhiều lý thuyết và thực hành đã được phát triển như là phản ứng có thể, vào lúc này có vẻ là đặc biệt lo lắng về việc làm thế nào để tiến hành. What is appropriate education for women, for indigenous peoples, for immigrants who do not speak the national language, for speakers of non-standard dialects? phụ nữ cho gì là thích hợp giáo dục, cho người dân bản địa, cho người di dân không nói được ngôn ngữ quốc gia, cho người nói tiếng địa phương không chuẩn? What is appropriate for all in the context of the ever more critical factors of local diversity and global connectedness? Điều gì là thích hợp cho tất cả trong bối cảnh của từng nhiều yếu tố quan trọng của sự đa dạng của địa phương và mối toàn cầu?As educators attempt to address the context of cultural and linguistic diversity through literacy pedagogy, we hear shrill claims and counterclaims about political correctness, the canon of great literature, grammar, and back-to-basics. Là nhà giáo dục cố gắng để giải quyết các bối cảnh và ngôn ngữ đa dạng văn hóa thông qua các phương pháp sư phạm văn, chúng ta nghe tuyên bố gay gắt và counterclaims về tính đúng đắn chính trị, kinh điển của văn học tuyệt vời, ngữ pháp, và back-to-cơ bản.
The prevailing sense of anxiety is fueled in part by the sense that, despite goodwill on the part of educators, despite professional expertise, and despite the large amounts of money expended to develop new approaches, there are still vast disparities in life chances - disparities that today seem to be widening still further. Các ý nghĩa phổ biến của sự lo lắng được thúc đẩy một phần bởi những ý nghĩa đó, mặc dù thiện chí trên một phần của giáo dục, mặc dù chuyên môn, và mặc dù một lượng lớn tiền chi tiêu để phát triển các phương pháp tiếp cận 
mới, vẫn còn sự bất bình đẳng cơ hội rộng lớn trong cuộc sống - sự khác biệt đó ngày hôm nay dường như được mở rộng hơn nữa. At the same time, radical changes are occurring in the nature of public, community, and economic life.Đồng thời, thay đổi cấp tiến đang xảy ra trong bản chất của công chúng, cộng đồng, và đời sống kinh tế. A strong sense of citizenship seems to be giving way to local fragmentation, and communities are breaking into ever more diverse and subculturally defined groupings. Một cảm giác mạnh mẽ của quyền công dân cho có vẻ là cách để chia nhỏ địa phương và cộng đồng là vi phạm vào đa dạng hơn và subculturally xác định các nhóm bao giờ hết. The changing technological and organizational shape of working life provides some with access to lifestyles of unprecedented affluence, while excluding others in ways that are increasingly related to the outcomes of education and training. Các công nghệ và tổ chức thay đổi hình dạng của cuộc sống làm việc cung cấp một số được tiếp cận với lối sống sung túc chưa từng có, trong khi loại trừ những người khác theo cách mà ngày càng có liên quan đến các kết quả của giáo dục và đào tạo. It may well be that we have to rethink what we are teaching, and, in particular, what new learning needs literacy pedagogy might now address. Nó cũng có thể là chúng ta phải suy nghĩ lại những gì chúng tôi đang giảng dạy, và đặc biệt, những gì cần biết chữ mới học sư phạm hiện nay có thể địa chỉ.
The ten authors of this text are educators who met for a week in September 1994 in New London, New Hampshire, in the United States, to discuss the state of literacy pedagogy. Các tác giả mười của văn bản này là các nhà giáo dục đã gặp trong một tuần vào tháng Chín năm 1994 tại New London, New Hampshire, ở Hoa Kỳ, để thảo luận về nhà nước của sư phạm văn. Members of the group had either worked together or drawn from each other's work over a number of years. Thành viên của nhóm đã có hoặc đã làm việc với nhau hoặc được rút ra từ các công việc của từng qua một số năm. The main areas of common or complementary concern included the pedagogical tension between immersion and explicit models of teaching; the challenge of cultural and linguistic diversity; the newly prominent modes and technologies of communication; and changing text usage in restructured workplaces. Các khu vực chính của hoặc bổ sung quan tâm bao gồm sự căng thẳng giữa sư phạm và rõ ràng mô hình ngâm giảng dạy; những thách thức của đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học, mới được nổi bật chế độ và các công nghệ truyền thông; và sử dụng văn bản thay đổi tại nơi làm việc cơ cấu lại. When we met in
1994, our purpose was to consolidate and extend these relationships in order to address the broader issue of the purposes of education, and, in this context, the specific issue of literacy pedagogy. Khi chúng tôi gặp nhau vào năm 1994, mục đích của chúng tôi là để củng cố và mở rộng các mối quan hệ để giải quyết vấn đề rộng hơn về mục đích của giáo dục, và, trong bối cảnh này, các vấn đề cụ thể của sư phạm văn. It was our intention to pull together ideas from a number of different domains and a number of different English-speaking countries. Đó là ý định của chúng tôi để kéo nhau ý tưởng từ một số lĩnh vực khác nhau và một số quốc gia nói tiếng Anh khác nhau. Our main concern was the question of life chances as it relates to the broader moral and cultural order of literacy pedagogy. mối quan tâm chính của chúng tôi là câu hỏi của các cơ hội cuộc sống như nó liên quan đến trật tự đạo đức và văn hóa rộng lớn hơn của phương pháp sư phạm văn.

Being ten distinctly different people, we brought to this discussion a great variety of national, life, and professional experiences. Rõ ràng là mười người khác nhau, chúng tôi mang đến cho cuộc thảo luận này một loạt các cuộc sống, quốc gia, và kinh nghiệm nghề nghiệp. Courtney Cazden from the United States has spent a long and highly influential career working on classroom discourse, on language learning in multilingual contexts, and, most recently, on literacy pedagogy. Courtney Cazden từ Hoa Kỳ đã dành một và có ảnh hưởng lớn sự nghiệp lâu dài làm việc trên giảng lớp học, về ngôn ngữ học tập trong các ngữ cảnh đa ngôn ngữ, và gần đây nhất, vào sư phạm văn. Bill Cope, from Australia, has written curricula addressing cultural diversity in schools, and has researched literacy pedagogy and the changing cultures and discourses of workplaces. Bill Cope, từ Australia, đã viết chương trình giải quyết vấn đề đa dạng văn hóa trong các trường học, và đã nghiên cứu sư phạm văn và các nền văn hóa thay đổi và thuyết giảng của nơi làm việc. From Great Britain, Norman Fairclough is a theorist of language and social meaning, and is particularly interested in linguistic and discursive change as part of social and cultural change. Từ Anh, Norman là một nhà lý luận Fairclough của ngôn ngữ và ý nghĩa xã hội, và đặc biệt quan tâm và không liên lạc thay đổi ngôn ngữ như là một phần của văn hóa và thay đổi xã hội. James Gee, from the United States, is a leading researcher and theorist on language and mind, and on the language and learning demands of the latest "fast capitalist" workplaces. James Gee, từ Hoa Kỳ, là một nhà nghiên cứu hàng đầu và nhà lý luận về ngôn ngữ và tâm trí, và trên ngôn ngữ và yêu cầu học tập mới nhất của "nhanh chóng tư bản chủ nghĩa" nơi làm việc. Mary Kalantzis, an Australian, has been involved in experimental social education and literacy curriculum projects, and is particularly interested in citizenship education. Mary Kalantzis, một người Úc, đã được tham gia vào giáo dục xã hội và các dự án thử nghiệm chương trình giảng dạy đọc viết, và đặc biệt quan tâm đến giáo dục công dân.Gunther Kress, from Great Britain, is best known for his work on language and learning, semiotics, visual literacy, and the multimodal literacies that are increasingly important to all communication, particularly the mass media. Gunther Kress, từ Anh quốc, được biết đến với tác phẩm của ông về ngôn ngữ và học tập, ký hiệu học, biết chữ trực quan, và đa phương thức literacies đang ngày càng quan trọng cho tất cả các thông tin liên lạc, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Allan Luke, from Australia, is a researcher and theorist of critical literacy who has brought sociological analysis to bear on the teaching of reading and writing. Allan Luke, từ Australia, là một nhà nghiên cứu và nhà lý luận của phái quan trọng người đã mang lại phân tích xã hội học chịu về việc dạy đọc và viết. Carmen Luke, also from Australia, has written extensively on feminist pedagogy. Carmen Luke, cũng từ Australia, đã viết nhiều về sư phạm nữ quyền.Sarah Michaels, from the United States, has had extensive experience in developing and researching programs of classroom learning in urban settings. Sarah Michaels, từ Mỹ, đã có kinh nghiệm trong phát triển và nghiên cứu các chương trình của lớp học ở các đô thị.Martin Nakata, an Australian, has researched and written on the issue of literacy in indigenous communities. Martin Nakata, một người Úc, đã nghiên cứu và viết về vấn đề của biết chữ trong các cộng đồng bản địa.

Creating a context for the meeting were our differences of national experience and differences of theoretical and political emphasis. Tạo ra một bối cảnh cho cuộc họp là sự khác biệt của chúng ta về kinh nghiệm quốc gia và sự khác biệt của chính trị và nhấn mạnh lý thuyết. For instance, we needed to debate at length the relative importance of immersion and explicit teaching; our differing expert interests in the areas of multimedia, workplace literacies, and cultural and linguistic diversity; and the issue of the extent to which we should compromise with the learning expectations and ethos of new forms of workplace organization. Ví dụ, chúng tôi cần phải tranh luận với chiều dài tầm quan trọng tương đối của và rõ ràng giảng dạy ngâm; lợi ích của chúng tôi chuyên gia khác nhau trong các lĩnh vực đa phương tiện, literacies nơi làm việc, và đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học và các vấn đề của mức độ mà chúng ta phải thỏa hiệp với học kỳ vọng và đặc tính của các hình thức mới của tổ chức nơi làm việc. We engaged in the discussions on the basis of a genuine commitment to collaborative problem-solving, bringing together a team with different knowledge, experiences, and positions in order to optimize the possibility of effectively addressing the complex reality of schools. Chúng tôi tham gia vào các cuộc thảo luận trên cơ sở của một cam kết chính hãng để hợp tác giải quyết vấn đề, mang cùng một đội ngũ với kiến thức khác nhau, kinh nghiệm, và vị trí để tối ưu hóa khả năng giải quyết hiệu quả thực tế phức tạp của các trường học.
Being aware of our differences, we shared the concern that our discussion might not be productive, yet it was: because of our differences, combined with our common sense of unease, we were able to agree on the fundamental problem - that is, that the disparities in educational outcomes did not seem to be improving.Nhận thức được sự khác biệt của chúng tôi, chúng tôi chia sẻ mối quan tâm rằng cuộc thảo luận của chúng tôi có thể không được sản xuất, nhưng nó đã được: vì những khác biệt của chúng tôi, kết hợp với cảm giác chung của chúng ta khó chịu, chúng tôi đã có thể đồng ý về vấn đề cơ bản - đó là, mà sự chênh lệch trong kết quả giáo dục dường như không được cải thiện. We agreed that we should get back to the broad question of the social outcomes of language learning, and that we should, on this basis, rethink the fundamental premises of literacy pedagogy in order to influence practices that will give students the skills and knowledge they need to achieve their aspirations. Chúng tôi nhất trí rằng chúng ta sẽ nhận được trở lại câu hỏi lớn trong những kết quả xã hội của việc học ngôn ngữ, và rằng chúng ta nên, trên cơ sở đó, xem xét lại các cơ sở cơ bản của phương pháp sư phạm cho phái để ảnh hưởng đến thực hành sẽ cung cấp cho sinh viên những kỹ năng và kiến thức cần thiết để đạt được nguyện vọng của họ. We agreed that in each of the English-speaking countries we came from, what students needed to learn was changing, and that the main element of this change was that there was not a singular, canonical English that could or should be taught anymore. Chúng tôi nhất trí rằng trong mỗi quốc gia nói tiếng Anh, chúng tôi đến từ, những gì học sinh cần phải học đã thay đổi, và đó là yếu tố chính của sự thay đổi này là không có một, ít kinh điển tiếng Anh có thể hoặc nên được giảng dạy nữa. Cultural differences and rapidly shifting communications media meant that the very nature of the subject - literacy pedagogy - was changing radically. Văn hóa khác biệt và thay đổi nhanh chóng phương tiện truyền thông thông tin liên lạc có nghĩa là chính bản chất của đối tượng - phương pháp sư phạm văn - đã thay đổi hoàn toàn. This article is a summary of our discussions. Bài viết này là một bản tóm tắt các cuộc thảo luận của
 chúng tôi.
The structure of this article evolved from the New London discussions. Cấu trúc của bài viết này đã tiến hóa từ London cuộc thảo luận mới. We began the discussions with an agenda that we had agreed upon in advance, which consisted of a schematic framework of key questions about the forms and content of literacy pedagogy. Chúng tôi đã bắt đầu các cuộc thảo luận với một chương trình mà chúng tôi đã thoả thuận trước, trong đó bao gồm một khung sơ đồ các câu hỏi quan trọng về các hình thức và nội dung của sư phạm văn.Over the course of our meeting, we worked through this agenda three times, teasing out difficult points, elaborating on the argument, and adapting the schematic structure that had been originally proposed. Trong suốt cuộc họp của chúng tôi, chúng tôi làm việc thông qua chương trình này ba lần, trêu chọc ra điểm khó khăn, xây dựng trên các đối số, và thích ứng với sơ đồ cấu trúc đã được đề xuất ban đầu. One team member typed key points, which were projected onto a screen so we could discuss the wording of a common argument. Một nhóm thành viên đánh máy những điểm chính, đã được chiếu lên màn hình để chúng tôi có thể thảo luận về các từ ngữ của một đối số thông thường. By the end of the meeting, we developed the final outline of an argument, subsequently to become this article. Đến cuối cuộc họp, chúng tôi phát triển các phác thảo cuối cùng của một cuộc tranh cãi, sau đó trở thành bài viết này. The various members of the group returned to their respective countries and institutions, and worked independently on the different sections; the draft was circulated and modified; and, finally, we opened up the article to public discussion in a series of plenary presentations and small discussion groups led by the team at the Fourth International Literacy and Education Research Network Conference held in Townsville, Australia, in June-July 1995. Các thành viên khác của nhóm trở lại cho các tổ chức tương ứng của các quốc gia và, và làm việc độc lập trên các phần khác nhau, bản thảo đã được lưu hành và sửa đổi, và, cuối cùng, chúng tôi đã mở ra những bài báo để thảo luận công khai trong một loạt các bài trình bày toàn thể và thảo luận nhỏ nhóm dẫn đầu bởi các nhóm nghiên cứu quốc tế lần thứ tư biết chữ và giáo dục Hội nghị Mạng nghiên cứu tổ chức tại Townsville, Australia, vào tháng Sáu tháng Bảy năm 1995.
This article is the result of a year's exhaustive discussions, yet it is by no means a finished piece. Bài viết này là kết quả của các cuộc thảo luận đầy đủ của một năm, nhưng nó không có nghĩa là một đoạn kết thúc. We present it here as a programmatic manifesto, as a starting point of sorts, open and tentative. Chúng tôi hiện nay nó ở đây như là một tuyên ngôn của chương trình, như là một điểm khởi đầu của các loại, công khai, dự kiến. The article is a theoretical overview of the current social context of learning and the consequences of social changes for the content (the "what") and the form (the "how") of literacy pedagogy. Bài viết này là một tổng quan về lý thuyết của bối cảnh xã hội hiện tại của học tập và những hậu quả của thay đổi xã hội về nội dung (các "cái gì"), hình thức (các "làm thế nào") của sư phạm văn. We hope that this article might form the basis for open-ended dialogue with fellow educators around the world; that it might spark ideas for possible new research areas; and that it might help frame curriculum experimentation that attempts to come to grips with our changing educational environment.Chúng tôi hy vọng rằng bài viết này có thể tạo thành cơ sở cho-kết thúc cuộc đối thoại mở với các nhà giáo dục đồng bào trên khắp thế giới; rằng nó có thể châm ngòi cho những ý tưởng nghiên cứu các khu vực mới có thể, và rằng nó có thể giúp thử nghiệm chương trình khung mà cố gắng để đi đến nắm bắt thay đổi của chúng tôi giáo dục môi trường.
We decided that the outcomes of our discussions could be encapsulated in one word - multiliteracies - a word we chose to describe two important arguments we might have with the emerging cultural, institutional, and global order: the multiplicity of communications channels and media, and the increasing saliency of cultural and linguistic diversity. Chúng tôi quyết định rằng các kết quả của các cuộc thảo luận của chúng tôi có thể được gói gọn trong một từ - multiliteracies - một từ để mô tả chúng tôi đã chọn hai đối số quan trọng chúng ta có thể có trình tự, văn hoá, thể chế, và toàn cầu đang nổi lên: các đa dạng của các kênh truyền thông và phương tiện truyền thông, và tăng saliency của đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học. The notion of multiliteracies supplements traditional literacy pedagogy by addressing these two related aspects of textual multiplicity. Các khái niệm về multiliteracies bổ sung cho phái sư phạm truyền thống bằng cách giải quyết hai khía cạnh liên quan của đa dạng văn bản. What we might term "mere literacy" remains centered on language only, and usually on a singular national form of language at that, which is conceived as a stable system based on rules such as mastering sound-letter correspondence. Những gì chúng ta có thể hạn "chỉ biết chữ" vẫn còn tập trung vào ngôn ngữ duy nhất, và thường về một hình thức quốc gia duy nhất của ngôn ngữ ở đó, mà được hình thành như một hệ thống ổn định dựa trên các nguyên tắc như làm chủ âm thanh-thư thư. This is based on the assumption that we can discern and describe correct usage. Điều này dựa trên giả định rằng chúng ta có thể phân biệt và mô tả sử dụng chính xác. Such a view of language will characteristically translate into a more or less authoritarian kind of pedagogy. Như một điểm đặc trưng của ngôn ngữ sẽ chuyển thành một hoặc ít độc hơn loại sư phạm. A pedagogy of multiliteracies, by contrast, focuses on modes of representation much broader than language alone. These differ according to culture and context, and have specific cognitive, cultural, and social effects. Một phương pháp sư phạm của multiliteracies, ngược lại, tập trung vào chế độ của đại diện rộng hơn nhiều so với ngôn ngữ một mình. Những khác biệt theo văn hóa và bối cảnh, và có nhận thức, văn hóa và xã hội tác động cụ thể. In some cultural contexts - in an Aboriginal community or in a multimedia environment, for instance - the visual mode of representation may be much more powerful and closely related to language than "mere literacy" would ever be able to allow. Trong một số bối cảnh văn hóa - trong một cộng đồng thổ dân hoặc trong một môi trường đa phương tiện, chẳng hạn - các chế độ trực quan của đại diện có thể được nhiều hơn nữa mạnh mẽ và chặt chẽ liên quan đến ngôn ngữ hơn là "chỉ biết chữ" bao giờ sẽ có thể cho phép.Multiliteracies also creates a different kind of pedagogy, one in which language and other modes of meaning are dynamic representational resources, constantly being remade by their users as they work to achieve their various cultural purposes. Multiliteracies cũng tạo ra một dạng khác của phương pháp sư phạm, trong đó ngôn ngữ và các chế độ khác về ý nghĩa là biểu hiện nguồn tài nguyên năng động, liên tục được làm lại bởi người dùng của họ khi họ làm việc để đạt được mục đích khác nhau về văn hóa của họ.
Two main arguments, then, emerged in our discussions.Hai tham số chính, sau đó, nổi lên trong các cuộc thảo luận của chúng tôi. The first relates to the increasing multiplicity and integration of significant modes of meaning-making, where the textual is also related to the visual, the audio, the spatial, the behavioral, and so on.đầu tiên liên quan đến đa dạng ngày càng tăng và hội nhập của chế độ quan trọng của việc ra ý nghĩa, nơi mà các văn bản cũng liên quan đến âm thanh, thị giác, các không gian, sự, hành vi và như vậy. This is particularly important in the mass media, multimedia, and in an electronic hypermedia. Điều này đặc biệt quan trọng trong các phương tiện truyền thông đại chúng, đa phương tiện, và trong một hypermedia điện tử. We may have cause to be skeptical about the sci-fi visions of information superhighways and an impending future where we are all virtual shoppers. Chúng tôi có thể có lý do để hoài nghi về các-khoa học viễn tưởng tầm nhìn của cao tốc thông tin và sắp xảy ra trong tương lai một nơi mà chúng tôi là tất cả các khách hàng ảo.Nevertheless, new communications media are reshaping the way we use language. Tuy nhiên, truyền thông đa phương tiện mới được định hình lại cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ. When technologies of meaning are changing so rapidly, there cannot be one set of standards or skills that constitute the ends of literacy learning, however taught. Khi công nghệ có nghĩa là đang thay đổi nhanh chóng như vậy, không thể có một bộ tiêu chuẩn, kỹ năng mà tạo thành kết thúc học biết chữ, tuy nhiên giảng dạy.
Second, we decided to use the term "multiliteracies" as a way to focus on the realities of increasing local diversity and global connectedness. Thứ hai, chúng tôi quyết định sử dụng "thuật ngữ" multiliteracies như là một cách tập trung vào những thực tế của địa phương ngày càng đa dạng và mối toàn cầu. Dealing with linguistic differences and cultural differences has now become central to the pragmatics of our working, civic, and private lives. Đối phó với sự khác biệt ngôn ngữ và khác biệt văn hóa đã trở thành trung tâm của pragmatics làm việc của chúng tôi, công dân, và cuộc sống riêng tư. Effective citizenship and productive work now require that we interact effectively using multiple languages, multiple Englishes, and communication patterns that more frequently cross cultural, community, and national boundaries. Quốc tịch và làm việc hiệu quả sản xuất bây giờ yêu cầu chúng tôi tương tác hiệu quả sử dụng nhiều ngôn ngữ, tiếng Anh nhiều, và các mô hình truyền thông thường xuyên hơn qua văn hóa, cộng đồng, và biên giới quốc gia.Subcultural diversity also extends to the ever broadening range of specialist registers and situational variations in language, be they technical, sporting, or related to groupings of interest and affiliation. Subcultural đa dạng cũng mở rộng với việc mở rộng phạm vi bao giờ hết của sổ đăng ký chuyên gia và các biến thể tình huống trong ngôn ngữ, được họ kỹ thuật, thể thao, hoặc liên quan đến các nhóm lợi ích và liên kết. When the proximity of cultural and linguistic diversity is one of the key facts of our time, the very nature of language learning has changed. Khi sự gần gũi của ngôn ngữ và đa dạng văn hóa là một trong những sự kiện quan trọng của thời đại chúng ta, chính bản chất của việc học ngôn ngữ đã thay đổi.
Indeed, these are fundamental issues about our future.Thật vậy, đây là những vấn đề cơ bản về tương lai của chúng tôi. In addressing these issues, literacy educators and students must see themselves as active participants in social change, as learners and students who can be active designers - makers - of social futures. Trong giải quyết các vấn đề này, giáo dục đọc, viết và học sinh phải xem mình là người tham gia tích cực trong thay đổi xã hội, là học viên và sinh viên có thể được thiết kế hoạt động - nhà sản xuất - trong tương lai của xã hội. We decided to begin the discussion with this question of social futures.Chúng tôi quyết định để bắt đầu các cuộc thảo luận với câu hỏi của tương lai xã hội.
Accordingly, the starting point of this article is the shape of social change - changes in our working lives, our public lives as citizens, and our private lives as members of different community lifeworlds. Theo đó, điểm khởi đầu của bài viết này là hình dạng của xã hội thay đổi - thay đổi trong cuộc sống của chúng tôi làm việc, đời sống công cộng của chúng tôi là công dân, và cuộc sống riêng tư của chúng tôi là thành viên của lifeworlds cộng đồng khác nhau. The fundamental questions is this: What do these changes mean for literacy pedagogy? Các câu hỏi cơ bản là: Những thay đổi này có nghĩa là cho sư phạm biết chữ không? In the context of these changes we then go on to conceptualize the "what" of literacy pedagogy. Trong bối cảnh của những thay đổi này chúng ta tiếp tục chuyển sang khái niệm "cái gì" của sư phạm văn. The key concept we introduce is that of Design, in which we are both inheritors of patterns and conventions of meaning and at the same time active designers of meaning. Khái niệm quan trọng chúng tôi giới thiệu là thiết kế, trong đó chúng ta được cả hai thừa kế của các mẫu và các công ước về ý nghĩa và đồng thời thiết kế hoạt động ý nghĩa. And, as designers of meaning, we are designers of social futures - workplace futures, public futures, and community futures. Và, như thiết kế về ý nghĩa, chúng tôi là nhà thiết kế của tương lai xã hội - tương lai của nơi làm việc, tương lai của công chúng, và tương lai của cộng đồng. The article goes on to discuss six design elements in the meaning-making process: those of Linguistic Meaning, Visual Meaning, Audio Meaning, Gestural Meaning, Spatial Meaning, and the Multimodal patterns of meaning that relate the first five modes of meaning to each other. Bài viết đi vào để thảo luận về sáu yếu tố thiết kế trong quá trình làm ý nghĩa: Ý nghĩa của quan điểm của ngôn ngữ học, Visual nghĩa, Audio Có nghĩa là, Gestural Có nghĩa là, không gian Ý nghĩa, và các mô hình đa phương thức về ý nghĩa liên quan các phương thức đầu tiên của năm ý nghĩa với nhau . In its last major section, the article translates the "what" into a "how." Trong phần lớn cuối cùng của nó, các dịch bài viết "cái gì" thành một "như thế nào." Four components of pedagogy are suggested: Situated Practice, which draws on the experience of meaning-making in lifeworlds, the public realm, and workplaces; Overt Instruction, through which students develop an explicit metalanguage of Design; Critical Framing, which interprets the social context and purpose of Designs of meaning; and Transformed Practice, in which students, as meaning-makers, become Designers of social futures. Bốn thành phần của phương pháp sư phạm được đề nghị: Nằm thực hành, mà dựa trên kinh nghiệm của ý nghĩa làm trong lifeworlds, các lĩnh vực công cộng, và nơi làm việc; Công khai Chỉ thị, qua đó học sinh phát triển một metalanguage rõ ràng của thiết kế; quan trọng tạo khung, trong đó giải thích bối cảnh xã hội và mục đích của thiết kế về ý nghĩa, và biến đổi thực hành, trong đó học sinh, như có nghĩa là các nhà hoạch định, thiết kế của tương lai trở thành xã hội. In the International Multiliteracies Project upon which we are now embarking, we hope to set up collaborative research relationships and programs of curriculum development that test, exemplify, extend, and rework the ideas tentatively suggested in this article.Trong dự án Multiliteracies quốc tế mà chúng tôi đang bắt tay, chúng tôi hy vọng sẽ thiết lập mối quan hệ hợp tác nghiên cứu và các chương trình phát triển chương trình giảng dạy nhằm thử nghiệm, hình mẫu, gia hạn, và làm lại các ý tưởng dự kiến đề nghị trong bài viết này.
The Changing Present and Near Futures: Visions for Work, Citizenship, and Lifeworlds Những thay đổi hiện tại và tương lai gần: Tầm nhìn cho công việc, quyền công dân, và Lifeworlds
The languages needed to make meaning are radically changing in three realms of our existence: our working lives, our public lives (citizenship), and our private lives (lifeworld). Các ngôn ngữ cần thiết để làm cho ý nghĩa là thay đổi triệt để trong ba cảnh giới của sự tồn tại của chúng tôi: làm việc, cuộc sống của chúng tôi, cuộc sống công cộng của chúng tôi (công dân), và cuộc sống riêng tư của chúng tôi (lifeworld).
Changing Working Lives Thay đổi cuộc đời làm việc     Một Sư phạm Multiliteracies: Thiết kế tương lai xã hội
THE NEW LONDON GROUP 1 THE NEW LONDON Nhóm 1
Abstract Tóm tắt
In this article, the New London Group presents a theoretical overview of the connections between the changing social environment facing students and teachers and a new approach to literacy pedagogy that they call "multiliteracies." Trong bài viết này, Tập đoàn New London trình bày tổng quan về lý thuyết của các kết nối giữa các môi trường xã hội thay đổi đối mặt với học sinh và giáo viên và phương pháp tiếp cận mới để sư phạm biết chữ mà họ gọi là "multiliteracies." The authors argue that the multiplicity of communications channels and increasing cultural and linguistic diversity in the world today call for a much broader view of literacy than portrayed by traditional language-based approaches. Multiliteracies, according to the authors, overcomes the limitations of traditional approaches by emphasizing how negotiating the multiple lingustic and cultural differences in our society is central to the pragmatics of the working, civic, and private lives of students. Các tác giả cho rằng tính đa dạng của các kênh truyền thông và ngày càng tăng và ngôn ngữ đa dạng văn hóa trong thế giới ngày nay gọi cho một rộng hơn xem nhiều phái hơn bởi ngôn ngữ mô tả dựa trên phương pháp tiếp cận truyền thống. Multiliteracies, theo các tác giả, khắc phục những hạn chế của phương pháp tiếp cận truyền thống của nhấn mạnh sự khác biệt như thế nào đàm phán nhiều lingustic và văn hóa trong xã hội của chúng tôi là trung tâm của pragmatics của làm việc, công dân, và cuộc sống riêng tư của học sinh. The authors maintain that the use of multiliteracies approaches to pedagogy will enable students to achieve the authors' twin goals for literacy learning: creating access to the evolving language of work, power, and community, and fostering the critical engagement necessary for them to design their social futures and achieve success through fulfilling employment. Các tác giả cho rằng việc sử dụng các phương pháp tiếp cận multiliteracies sư phạm sẽ giúp sinh viên đạt được 'mục tiêu hai tác giả cho việc học biết chữ: Tạo truy cập vào các ngôn ngữ phát triển của công việc, quyền lực, và cộng đồng, và bồi dưỡng các cam kết quan trọng cần thiết cho họ để thiết kế tương lai của xã hội và đạt được thành công thông qua thực hiện việc làm.
(pp. 60-92) (Trang 60-92)

If it were possible to define generally the mission of education, one could say that its fundamental purpose is to ensure that all students benefit from learning in ways that allow them to participate fully in public, community, and economic life. Nếu có thể định nghĩa nói chung nhiệm vụ của giáo dục, người ta có thể nói rằng mục đích cơ bản của nó là đảm bảo rằng tất cả học sinh được hưởng lợi từ việc học tập bằng cách cho phép họ tham gia đầy đủ trong công chúng, cộng đồng, và đời sống kinh tế. Literacy pedagogy is expected to play a particularly important role in fulfilling this mission. Biết chữ sư phạm sẽ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Pedagogy is a teaching and learning relationship that creates the potential for building learning conditions leading to full and equitable social participation. Sư phạm là một mối quan hệ giảng dạy và học tạo ra những tiềm năng để xây dựng các điều kiện học tập dẫn đến công bằng xã hội tham gia và đầy đủ. Literacy pedagogy has traditionally meant teaching and learning to read and write in page-bound, official, standard forms of the national language. Biết chữ có nghĩa là phương pháp sư phạm truyền thống dạy và học đọc và viết vào trang giới hạn, chính thức, hình thức tiêu chuẩn của ngôn ngữ quốc gia. Literacy pedagogy, in other words, has been a carefully restricted project - restricted to formalized, monolingual, monocultural, and rule-governed forms of language. Biết chữ sư phạm, nói cách khác, đã được một giới hạn dự án một cách cẩn thận - giới hạn, đơn ngữ, monocultural, và quy tắc chi phối chính thức hóa các hình thức của ngôn ngữ.
In this article, we attempt to broaden this understanding of literacy and literacy teaching and learning to include negotiating a multiplicity of discourses. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng để mở rộng sự hiểu biết của biết chữ và biết chữ dạy và học để bao gồm đàm phán một đa dạng của các giảng.We seek to highlight two principal aspects of this multiplicity. First, we want to extend the idea and scope of literacy pedagogy to account for the context of our culturally and linguistically diverse and increasingly globalized societies, for the multifarious cultures that interrelate and the plurality of texts that circulate. Chúng tôi tìm kiếm để làm nổi bật hai khía cạnh chủ yếu của đa dạng này. Đầu tiên chúng tôi muốn mở rộng phạm vi ý tưởng và phương pháp sư phạm cho phái vào tài khoản cho các bối cảnh xã hội của chúng tôi về văn hóa và ngôn ngữ đa dạng và toàn cầu hóa ngày càng tăng đối với các nền văn hóa phong phú và đa số là interrelate của các văn bản lưu hành.Second, we argue that literacy pedagogy now must account for the burgeoning variety of text forms associated with information and multimedia technologies. Thứ hai, chúng tôi cho rằng bây giờ biết chữ sư phạm phải chiếm đa dạng đang phát triển của các hình thức văn bản liên quan và đa phương tiện công nghệ thông tin. This includes understanding and competent control of representational forms that are becoming increasingly significant in the overall communications environment, such as visual images and their relationship to the written word - for instance, visual design in desktop publishing or the interface of visual and linguistic meaning in multimedia. Indeed, this second point relates closely back to the first; the proliferation of communications channels and media supports and extends cultural and subcultural diversity. Điều này bao gồm sự hiểu biết và kiểm soát có thẩm quyền của các hình thức biểu hiện mà đang trở nên ngày càng quan trọng trong môi trường truyền thông tổng thể, chẳng hạn như hình ảnh trực quan và mối quan hệ của họ đến từ bản - ví dụ, hình ảnh thiết kế trong việc xuất bản trên máy tính hoặc giao diện của ngôn ngữ và ý nghĩa trực quan trong đa phương tiện . Thực ra, điều này liên quan chặt chẽ điểm thứ hai trở lại đầu tiên, sự gia tăng của các kênh truyền thông và phương tiện truyền thông hỗ trợ và mở rộng và đa dạng văn hóa subcultural. As soon as our sights are set on the objective of creating the learning conditions for full social participation, the issue of differences becomes critically important. Ngay sau khi các điểm tham quan của chúng tôi được thiết lập trên các mục tiêu của việc tạo ra các điều kiện học tập cho sự tham gia của toàn xã hội, vấn đề của sự khác biệt trở nên quan trọng. How do we ensure that differences of culture, language, and gender are not barriers to educational success? Làm thế nào để chúng tôi đảm bảo rằng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, và giới tính không phải là rào cản đối với giáo dục thành công? And what are the implications of these differences for literacy pedagogy? Và sư phạm văn những gì đang có những tác động của những sự khác biệt?
This question of differences has become a main one that we must now address as educators. Câu hỏi về sự khác biệt đã trở thành một trong những chính mà chúng ta bây giờ phải giải quyết như giáo dục. And although numerous theories and practices have been developed as possible responses, at the moment there seems to be particular anxiety about how to proceed.Và mặc dù rất nhiều lý thuyết và thực hành đã được phát triển như là phản ứng có thể, vào lúc này có vẻ là đặc biệt lo lắng về việc làm thế nào để tiến hành. What is appropriate education for women, for indigenous peoples, for immigrants who do not speak the national language, for speakers of non-standard dialects? phụ nữ cho gì là thích hợp giáo dục, cho người dân bản địa, cho người di dân không nói được ngôn ngữ quốc gia, cho người nói tiếng địa phương không chuẩn?What is appropriate for all in the context of the ever more critical factors of local diversity and global connectedness? Điều gì là thích hợp cho tất cả trong bối cảnh của từng nhiều yếu tố quan trọng của sự đa dạng của địa phương và mối toàn cầu? As educators attempt to address the context of cultural and linguistic diversity through literacy pedagogy, we hear shrill claims and counterclaims about political correctness, the canon of great literature, grammar, and back-to-basics. Là nhà giáo dục cố gắng để giải quyết các bối cảnh và ngôn ngữ đa dạng văn hóa thông qua các phương pháp sư phạm văn, chúng ta nghe tuyên bố gay gắt và counterclaims về tính đúng đắn chính trị, kinh điển của văn học tuyệt vời, ngữ pháp, và back-to-cơ bản.
The prevailing sense of anxiety is fueled in part by the sense that, despite goodwill on the part of educators, despite professional expertise, and despite the large amounts of money expended to develop new approaches, there are still vast disparities in life chances - disparities that today seem to be widening still further. Các ý nghĩa phổ biến của sự lo lắng được thúc đẩy một phần bởi những ý nghĩa đó, mặc dù thiện chí trên một phần của giáo dục, mặc dù chuyên môn, và mặc dù một lượng lớn tiền chi tiêu để phát triển các phương pháp tiếp cận mới, vẫn còn sự bất bình đẳng cơ hội rộng lớn trong cuộc sống - sự khác biệt đó ngày hôm nay dường như được mở rộng hơn nữa. At the same time, radical changes are occurring in the nature of public, community, and economic life.Đồng thời, thay đổi cấp tiến đang xảy ra trong bản chất của công chúng, cộng đồng, và đời sống kinh tế. A strong sense of citizenship seems to be giving way to local fragmentation, and communities are breaking into ever more diverse and subculturally defined groupings. Một cảm giác mạnh mẽ của quyền công dân cho có vẻ là cách để chia nhỏ địa phương và cộng đồng là vi phạm vào đa dạng hơn và subculturally xác định các nhóm bao giờ hết. The changing technological and organizational shape of working life provides some with access to lifestyles of unprecedented affluence, while excluding others in ways that are increasingly related to the outcomes of education and training. Các công nghệ và tổ chức thay đổi hình dạng của cuộc sống làm việc cung cấp một số được tiếp cận với lối sống sung túc chưa từng có, trong khi loại trừ những người khác theo cách mà ngày càng có liên quan đến các kết quả của giáo dục và đào tạo.It may well be that we have to rethink what we are teaching, and, in particular, what new learning needs literacy pedagogy might now address. Nó cũng có thể là chúng ta phải suy nghĩ lại những gì chúng tôi đang giảng dạy, và đặc biệt, những gì cần biết chữ mới học sư phạm hiện nay có thể địa chỉ.
The ten authors of this text are educators who met for a week in September 1994 in New London, New Hampshire, in the United States, to discuss the state of literacy pedagogy. Các tác giả mười của văn bản này là các nhà giáo dục đã gặp trong một tuần vào tháng Chín năm 1994 tại New London, New Hampshire, ở Hoa Kỳ, để thảo luận về nhà nước của sư phạm văn.Members of the group had either worked together or drawn from each other's work over a number of years.Thành viên của nhóm đã có hoặc đã làm việc với nhau hoặc được rút ra từ các công việc của từng qua một số năm. The main areas of common or complementary concern included the pedagogical tension between immersion and explicit models of teaching; the challenge of cultural and linguistic diversity; the newly prominent modes and technologies of communication; and changing text usage in restructured workplaces.Các khu vực chính của hoặc bổ sung quan tâm bao gồm sự căng thẳng giữa sư phạm và rõ ràng mô hình ngâm giảng dạy; những thách thức của đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học, mới được nổi bật chế độ và các công nghệ truyền thông; và sử dụng văn bản thay đổi tại nơi làm việc cơ cấu lại. When we met in 1994, our purpose was to consolidate and extend these relationships in order to address the broader issue of the purposes of education, and, in this context, the specific issue of literacy pedagogy. Khi chúng tôi gặp nhau vào năm 1994, mục đích của chúng tôi là để củng cố và mở rộng các mối quan hệ để giải quyết vấn đề rộng hơn về mục đích của giáo dục, và, trong bối cảnh này, các vấn đề cụ thể của sư phạm văn. It was our intention to pull together ideas from a number of different domains and a number of different English-speaking countries. Đó là ý định của chúng tôi để kéo nhau ý tưởng từ một số lĩnh vực khác nhau và một số quốc gia nói tiếng Anh khác nhau. Our main concern was the question of life chances as it relates to the broader moral and cultural order of literacy pedagogy. mối quan tâm chính của chúng tôi là câu hỏi của các cơ hội cuộc sống như nó liên quan đến trật tự đạo đức và văn hóa rộng lớn hơn của phương pháp sư phạm văn.

Being ten distinctly different people, we brought to this discussion a great variety of national, life, and professional experiences. Rõ ràng là mười người khác nhau, chúng tôi mang đến cho cuộc thảo luận này một loạt các cuộc sống, quốc gia, và kinh nghiệm nghề nghiệp. Courtney Cazden from the United States has spent a long and highly influential career working on classroom discourse, on language learning in multilingual contexts, and, most recently, on literacy pedagogy. Courtney Cazden từ Hoa Kỳ đã dành một và có ảnh hưởng lớn sự nghiệp lâu dài làm việc trên giảng lớp học, về ngôn ngữ học tập trong các ngữ cảnh đa ngôn ngữ, và gần đây nhất, vào sư phạm văn. Bill Cope, from Australia, has written curricula addressing cultural diversity in schools, and has researched literacy pedagogy and the changing cultures and discourses of workplaces. Bill Cope, từ Australia, đã viết chương trình giải quyết vấn đề đa dạng văn hóa trong các trường học, và đã nghiên cứu sư phạm văn và các nền văn hóa thay đổi và thuyết giảng của nơi làm việc. From Great Britain, Norman Fairclough is a theorist of language and social meaning, and is particularly interested in linguistic and discursive change as part of social and cultural change. Từ Anh, Norman là một nhà lý luận Fairclough của ngôn ngữ và ý nghĩa xã hội, và đặc biệt quan tâm và không liên lạc thay đổi ngôn ngữ như là một phần của văn hóa và thay đổi xã hội. James Gee, from the United States, is a leading researcher and theorist on language and mind, and on the language and learning demands of the latest "fast capitalist" workplaces. James Gee, từ Hoa Kỳ, là một nhà nghiên cứu hàng đầu và nhà lý luận về ngôn ngữ và tâm trí, và trên ngôn ngữ và yêu cầu học tập mới nhất của "nhanh chóng tư bản chủ nghĩa" nơi làm việc. Mary Kalantzis, an Australian, has been involved in experimental social education and literacy curriculum projects, and is particularly interested in citizenship education. Mary Kalantzis, một người Úc, đã được tham gia vào giáo dục xã hội và các dự án thử nghiệm chương trình giảng dạy đọc viết, và đặc biệt quan tâm đến giáo dục công dân. Gunther Kress, from Great Britain, is best known for his work on language and learning, semiotics, visual literacy, and the multimodal literacies that are increasingly important to all communication, particularly the mass media. Gunther Kress, từ Anh quốc, được biết đến với tác phẩm của ông về ngôn ngữ và học tập, ký hiệu học, biết chữ trực quan, và đa phương thức literacies đang ngày càng quan trọng cho tất cả các thông tin liên lạc, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng. Allan Luke, from Australia, is a researcher and theorist of critical literacy who has brought sociological analysis to bear on the teaching of reading and writing. Allan Luke, từ Australia, là một nhà nghiên cứu và nhà lý luận của phái quan trọng người đã mang lại phân tích xã hội học chịu về việc dạy đọc và viết. Carmen Luke, also from Australia, has written extensively on feminist pedagogy. Carmen Luke, cũng từ Australia, đã viết nhiều về sư phạm nữ quyền. Sarah Michaels, from the United States, has had extensive experience in developing and researching programs of classroom learning in urban settings. Sarah Michaels, từ Mỹ, đã có kinh nghiệm trong phát triển và nghiên cứu các chương trình của lớp học ở các đô thị. Martin Nakata, an Australian, has researched and written on the issue of literacy in indigenous communities. Martin Nakata, một người Úc, đã nghiên cứu và viết về vấn đề của biết chữ trong các cộng đồng bản địa.
Creating a context for the meeting were our differences of national experience and differences of theoretical and political emphasis. Tạo ra một bối cảnh cho cuộc họp là sự khác biệt của chúng ta về kinh nghiệm quốc gia và sự khác biệt của chính trị và nhấn mạnh lý thuyết. For instance, we needed to debate at length the relative importance of immersion and explicit teaching; our differing expert interests in the areas of multimedia, workplace literacies, and cultural and linguistic diversity; and the issue of the extent to which we should compromise with the learning expectations and ethos of new forms of workplace organization. Ví dụ, chúng tôi cần phải tranh luận với chiều dài tầm quan trọng tương đối của và rõ ràng giảng dạy ngâm; lợi ích của chúng tôi chuyên gia khác nhau trong các lĩnh vực đa phương tiện, literacies nơi làm việc, và đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học và các vấn đề của mức độ mà chúng ta phải thỏa hiệp với học kỳ vọng và đặc tính của các hình thức mới của tổ chức nơi làm việc. We engaged in the discussions on the basis of a genuine commitment to collaborative problem-solving, bringing together a team with different knowledge, experiences, and positions in order to optimize the possibility of effectively addressing the complex reality of schools. Chúng tôi tham gia vào các cuộc thảo luận trên cơ sở của một cam kết chính hãng để hợp tác giải quyết vấn đề, mang cùng một đội ngũ với kiến thức khác nhau, kinh nghiệm, và vị trí để tối ưu hóa khả năng giải quyết hiệu quả thực tế phức tạp của các trường học.
Being aware of our differences, we shared the concern that our discussion might not be productive, yet it was: because of our differences, combined with our common sense of unease, we were able to agree on the fundamental problem - that is, that the disparities in educational outcomes did not seem to be improving.Nhận thức được sự khác biệt của chúng tôi, chúng tôi chia sẻ mối quan tâm rằng cuộc thảo luận của chúng tôi có thể không được sản xuất, nhưng nó đã được: vì những khác biệt của chúng tôi, kết hợp với cảm giác chung của chúng ta khó chịu, chúng tôi đã có thể đồng ý về vấn đề cơ bản - đó là, mà sự chênh lệch trong kết quả giáo dục dường như không được cải thiện. We agreed that we should get back to the broad question of the social outcomes of language learning, and that we should, on this basis, rethink the fundamental premises of literacy pedagogy in order to influence practices that will give students the skills and knowledge they need to achieve their aspirations.Chúng tôi nhất trí rằng chúng ta sẽ nhận được trở lại câu hỏi lớn trong những kết quả xã hội của việc học ngôn ngữ, và rằng chúng ta nên, trên cơ sở đó, xem xét lại các cơ sở cơ bản của phương pháp sư phạm cho phái để ảnh hưởng đến thực hành sẽ cung cấp cho sinh viên những kỹ năng và kiến thức cần thiết để đạt được nguyện vọng của họ. We agreed that in each of the English-speaking countries we came from, what students needed to learn was changing, and that the main element of this change was that there was not a singular, canonical English that could or should be taught anymore. Chúng tôi nhất trí rằng trong mỗi quốc gia nói tiếng Anh, chúng tôi đến từ, những gì học sinh cần phải học đã thay đổi, và đó là yếu tố chính của sự thay đổi này là không có một, ít kinh điển tiếng Anh có thể hoặc nên được giảng dạy nữa. Cultural differences and rapidly shifting communications media meant that the very nature of the subject - literacy pedagogy - was changing radically. Văn hóa khác biệt và thay đổi nhanh chóng phương tiện truyền thông thông tin liên lạc có nghĩa là chính bản chất của đối tượng - phương pháp sư phạm văn - đã thay đổi hoàn toàn. This article is a summary of our discussions. Bài viết này là một bản tóm tắt các cuộc thảo luận của chúng tôi.
The structure of this article evolved from the New London discussions. Cấu trúc của bài viết này đã tiến hóa từ London cuộc thảo luận mới. We began the discussions with an agenda that we had agreed upon in advance, which consisted of a schematic framework of key questions about the forms and content of literacy pedagogy. Chúng tôi đã bắt đầu các cuộc thảo luận với một chương trình mà chúng tôi đã thoả thuận trước, trong đó bao gồm một khung sơ đồ các câu hỏi quan trọng về các hình thức và nội dung của sư phạm văn.Over the course of our meeting, we worked through this agenda three times, teasing out difficult points, elaborating on the argument, and adapting the schematic structure that had been originally proposed.Trong suốt cuộc họp của chúng tôi, chúng tôi làm việc thông qua chương trình này ba lần, trêu chọc ra điểm khó khăn, xây dựng trên các đối số, và thích ứng với sơ đồ cấu trúc đã được đề xuất ban đầu. One team member typed key points, which were projected onto a screen so we could discuss the wording of a common argument. Một nhóm thành viên đánh máy những điểm chính, đã được chiếu lên màn hình để chúng tôi có thể thảo luận về các từ ngữ của một đối số thông thường. By the end of the meeting, we developed the final outline of an argument, subsequently to become this article. Đến cuối cuộc họp, chúng tôi phát triển các phác thảo cuối cùng của một cuộc tranh cãi, sau đó trở thành bài viết này. The various members of the group returned to their respective countries and institutions, and worked independently on the different sections; the draft was circulated and modified; and, finally, we opened up the article to public discussion in a series of plenary presentations and small discussion groups led by the team at the Fourth International Literacy and Education Research Network Conference held in Townsville, Australia, in June-July 1995. Các thành viên khác của nhóm trở lại cho các tổ chức tương ứng của các quốc gia và, và làm việc độc lập trên các phần khác nhau, bản thảo đã được lưu hành và sửa đổi, và, cuối cùng, chúng tôi đã mở ra những bài báo để thảo luận công khai trong một loạt các bài trình bày toàn thể và thảo luận nhỏ nhóm dẫn đầu bởi các nhóm nghiên cứu quốc tế lần thứ tư biết chữ và giáo dục Hội nghị Mạng nghiên cứu tổ chức tại Townsville, Australia, vào tháng Sáu tháng Bảy năm 1995.
This article is the result of a year's exhaustive discussions, yet it is by no means a finished piece. Bài viết này là kết quả của các cuộc thảo luận đầy đủ của một năm, nhưng nó không có nghĩa là một đoạn kết thúc. We present it here as a programmatic manifesto, as a starting point of sorts, open and tentative. Chúng tôi hiện nay nó ở đây như là một tuyên ngôn của chương trình, như là một điểm khởi đầu của các loại, công khai, dự kiến. The article is a theoretical overview of the current social context of learning and the consequences of social changes for the content (the "what") and the form (the "how") of literacy pedagogy. Bài viết này là một tổng quan về lý thuyết của bối cảnh xã hội hiện tại của học tập và những hậu quả của thay đổi xã hội về nội dung (các "cái gì"), hình thức (các "làm thế nào") của sư phạm văn. We hope that this article might form the basis for open-ended dialogue with fellow educators around the world; that it might spark ideas for possible new research areas; and that it might help frame curriculum experimentation that attempts to come to grips with our changing educational environment.Chúng tôi hy vọng rằng bài viết này có thể tạo thành cơ sở cho-kết thúc cuộc đối thoại mở với các nhà giáo dục đồng bào trên khắp thế giới; rằng nó có thể châm ngòi cho những ý tưởng nghiên cứu các khu vực mới có thể, và rằng nó có thể giúp thử nghiệm chương trình khung mà cố gắng để đi đến nắm bắt thay đổi của chúng tôi giáo dục môi trường.
We decided that the outcomes of our discussions could be encapsulated in one word - multiliteracies - a word we chose to describe two important arguments we might have with the emerging cultural, institutional, and global order: the multiplicity of communications channels and media, and the increasing saliency of cultural and linguistic diversity. Chúng tôi quyết định rằng các kết quả của các cuộc thảo luận của chúng tôi có thể được gói gọn trong một từ - multiliteracies - một từ để mô tả chúng tôi đã chọn hai đối số quan trọng chúng ta có thể có trình tự, văn hoá, thể chế, và toàn cầu đang nổi lên: các đa dạng của các kênh truyền thông và phương tiện truyền thông, và tăng saliency của đa dạng văn hóa và ngôn ngữ học. The notion of multiliteracies supplements traditional literacy pedagogy by addressing these two related aspects of textual multiplicity. Các khái niệm về multiliteracies bổ sung cho phái sư phạm truyền thống bằng cách giải quyết hai khía cạnh liên quan của đa dạng văn bản. What we might term "mere literacy" remains centered on language only, and usually on a singular national form of language at that, which is conceived as a stable system based on rules such as mastering sound-letter correspondence. Những gì chúng ta có thể hạn "chỉ biết chữ" vẫn còn tập trung vào ngôn ngữ duy nhất, và thường về một hình thức quốc gia duy nhất của ngôn ngữ ở đó, mà được hình thành như một hệ thống ổn định dựa trên các nguyên tắc như làm chủ âm thanh-thư thư. This is based on the assumption that we can discern and describe correct usage. Điều này dựa trên giả định rằng chúng ta có thể phân biệt và mô tả sử dụng chính xác. Such a view of language will characteristically translate into a more or less authoritarian kind of pedagogy. Như một điểm đặc trưng của ngôn ngữ sẽ chuyển thành một hoặc ít độc hơn loại sư phạm. A pedagogy of multiliteracies, by contrast, focuses on modes of representation much broader than language alone. These differ according to culture and context, and have specific cognitive, cultural, and social effects.Một phương pháp sư phạm của multiliteracies, ngược lại, tập trung vào chế độ của đại diện rộng hơn nhiều so với ngôn ngữ một mình. Những khác biệt theo văn hóa và bối cảnh, và có nhận thức, văn hóa và xã hội tác động cụ thể. In some cultural contexts - in an Aboriginal community or in a multimedia environment, for instance - the visual mode of representation may be much more powerful and closely related to language than "mere literacy" would ever be able to allow. Trong một số bối cảnh văn hóa - trong một cộng đồng thổ dân hoặc trong một môi trường đa phương tiện, chẳng hạn - các chế độ trực quan của đại diện có thể được nhiều hơn nữa mạnh mẽ và chặt chẽ liên quan đến ngôn ngữ hơn là "chỉ biết chữ" bao giờ sẽ có thể cho phép. Multiliteracies also creates a different kind of pedagogy, one in which language and other modes of meaning are dynamic representational resources, constantly being remade by their users as they work to achieve their various cultural purposes. Multiliteracies cũng tạo ra một dạng khác của phương pháp sư phạm, trong đó ngôn ngữ và các chế độ khác về ý nghĩa là biểu hiện nguồn tài nguyên năng động, liên tục được làm lại bởi người dùng của họ khi họ làm việc để đạt được mục đích khác nhau về văn hóa của họ.
Two main arguments, then, emerged in our discussions. Hai tham số chính, sau đó, nổi lên trong các cuộc thảo luận của chúng tôi. The first relates to the increasing multiplicity and integration of significant modes of meaning-making, where the textual is also related to the visual, the audio, the spatial, the behavioral, and so on. đầu tiên liên quan đến đa dạng ngày càng tăng và hội nhập của chế độ quan trọng của việc ra ý nghĩa, nơi mà các văn bản cũng liên quan đến âm thanh, thị giác, các không gian, sự, hành vi và như vậy. This is particularly important in the mass media, multimedia, and in an electronic hypermedia. Điều này đặc biệt quan trọng trong các phương tiện truyền thông đại chúng, đa phương tiện, và trong một hypermedia điện tử. We may have cause to be skeptical about the sci-fi visions of information superhighways and an impending future where we are all virtual shoppers. Chúng tôi có thể có lý do để hoài nghi về các-khoa học viễn tưởng tầm nhìn của cao tốc thông tin và sắp xảy ra trong tương lai một nơi mà chúng tôi là tất cả các khách hàng ảo. Nevertheless, new communications media are reshaping the way we use language. Tuy nhiên, truyền thông đa phương tiện mới được định hình lại cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ. When technologies of meaning are changing so rapidly, there cannot be one set of standards or skills that constitute the ends of literacy learning, however taught. Khi công nghệ có nghĩa là đang thay đổi nhanh chóng như vậy, không thể có một bộ tiêu chuẩn, kỹ năng mà tạo thành kết thúc học biết chữ, tuy nhiên giảng dạy.
Second, we decided to use the term "multiliteracies" as a way to focus on the realities of increasing local diversity and global connectedness. Thứ hai, chúng tôi quyết định sử dụng "thuật ngữ" multiliteracies như là một cách tập trung vào những thực tế của địa phương ngày càng đa dạng và mối toàn cầu. Dealing with linguistic differences and cultural differences has now become central to the pragmatics of our working, civic, and private lives. Đối phó với sự khác biệt ngôn ngữ và khác biệt văn hóa đã trở thành trung tâm của pragmatics làm việc của chúng tôi, công dân, và cuộc sống riêng tư. Effective citizenship and productive work now require that we interact effectively using multiple languages, multiple Englishes, and communication patterns that more frequently cross cultural, community, and national boundaries. Quốc tịch và làm việc hiệu quả sản xuất bây giờ yêu cầu chúng tôi tương tác hiệu quả sử dụng nhiều ngôn ngữ, tiếng Anh nhiều, và các mô hình truyền thông thường xuyên hơn qua văn hóa, cộng đồng, và biên giới quốc gia. Subcultural diversity also extends to the ever broadening range of specialist registers and situational variations in language, be they technical, sporting, or related to groupings of interest and affiliation.Subcultural đa dạng cũng mở rộng với việc mở rộng phạm vi bao giờ hết của sổ đăng ký chuyên gia và các biến thể tình huống trong ngôn ngữ, được họ kỹ thuật, thể thao, hoặc liên quan đến các nhóm lợi ích và liên kết. When the proximity of cultural and linguistic diversity is one of the key facts of our time, the very nature of language learning has changed. Khi sự gần gũi của ngôn ngữ và đa dạng văn hóa là một trong những sự kiện quan trọng của thời đại chúng ta, chính bản chất của việc học ngôn ngữ đã thay đổi.
Indeed, these are fundamental issues about our future.Thật vậy, đây là những vấn đề cơ bản về tương lai của chúng tôi. In addressing these issues, literacy educators and students must see themselves as active participants in social change, as learners and students who can be active designers - makers - of social futures. Trong giải quyết các vấn đề này, giáo dục đọc, viết và học sinh phải xem mình là người tham gia tích cực trong thay đổi xã hội, là học viên và sinh viên có thể được thiết kế hoạt động - nhà sản xuất - trong tương lai của xã hội. We decided to begin the discussion with this question of social futures. Chúng tôi quyết định để bắt đầu các cuộc thảo luận với câu hỏi của tương lai xã hội.
Accordingly, the starting point of this article is the shape of social change - changes in our working lives, our public lives as citizens, and our private lives as members of different community lifeworlds. Theo đó, điểm khởi đầu của bài viết này là hình dạng của xã hội thay đổi - thay đổi trong cuộc sống của chúng tôi làm việc, đời sống công cộng của chúng tôi là công dân, và cuộc sống riêng tư của chúng tôi là thành viên của lifeworlds cộng đồng khác nhau. The fundamental questions is this: What do these changes mean for literacy pedagogy? Các câu hỏi cơ bản là: Những thay đổi này có nghĩa là cho sư phạm biết chữ không? In the context of these changes we then go on to conceptualize the "what" of literacy pedagogy. Trong bối cảnh của những thay đổi này chúng ta tiếp tục chuyển sang khái niệm "cái gì" của sư phạm văn. The key concept we introduce is that of Design, in which we are both inheritors of patterns and conventions of meaning and at the same time active designers of meaning. Khái niệm quan trọng chúng tôi giới thiệu là thiết kế, trong đó chúng ta được cả hai thừa kế của các mẫu và các công ước về ý nghĩa và đồng thời thiết kế hoạt động ý nghĩa. And, as designers of meaning, we are designers of social futures - workplace futures, public futures, and community futures. Và, như thiết kế về ý nghĩa, chúng tôi là nhà thiết kế của tương lai xã hội - tương lai của nơi làm việc, tương lai của công chúng, và tương lai của cộng đồng. The article goes on to discuss six design elements in the meaning-making process: those of Linguistic Meaning, Visual Meaning, Audio Meaning, Gestural Meaning, Spatial Meaning, and the Multimodal patterns of meaning that relate the first five modes of meaning to each other. Bài viết đi vào để thảo luận về sáu yếu tố thiết kế trong quá trình làm ý nghĩa: Ý nghĩa của quan điểm của ngôn ngữ học, Visual nghĩa, Audio Có nghĩa là, Gestural Có nghĩa là, không gian Ý nghĩa, và các mô hình đa phương thức về ý nghĩa liên quan các phương thức đầu tiên của năm ý nghĩa với nhau . In its last major section, the article translates the "what" into a "how."Trong phần lớn cuối cùng của nó, các dịch bài viết "cái gì" thành một "như thế nào." Four components of pedagogy are suggested: Situated Practice, which draws on the experience of meaning-making in lifeworlds, the public realm, and workplaces; Overt Instruction, through which students develop an explicit metalanguage of Design; Critical Framing, which interprets the social context and purpose of Designs of meaning; and Transformed Practice, in which students, as meaning-makers, become Designers of social futures. Bốn thành phần của phương pháp sư phạm được đề nghị: Nằm thực hành, mà dựa trên kinh nghiệm của ý nghĩa làm trong lifeworlds, các lĩnh vực công cộng, và nơi làm việc; Công khai Chỉ thị, qua đó học sinh phát triển một metalanguage rõ ràng của thiết kế; quan trọng tạo khung, trong đó giải thích bối cảnh xã hội và mục đích của thiết kế về ý nghĩa, và biến đổi thực hành, trong đó học sinh, như có nghĩa là các nhà hoạch định, thiết kế của tương lai trở thành xã hội. In the International Multiliteracies Project upon which we are now embarking, we hope to set up collaborative research relationships and programs of curriculum development that test, exemplify, extend, and rework the ideas tentatively suggested in this article. Trong dự án Multiliteracies quốc tế mà chúng tôi đang bắt tay, chúng tôi hy vọng sẽ thiết lập mối quan hệ hợp tác nghiên cứu và các chương trình phát triển chương trình giảng dạy nhằm thử nghiệm, hình mẫu, gia hạn, và làm lại các ý tưởng dự kiến đề nghị trong bài viết này.
The Changing Present and Near Futures: Visions for Work, Citizenship, and Lifeworlds Những thay đổi hiện tại và tương lai gần: Tầm nhìn cho công việc, quyền công dân, và Lifeworlds
The languages needed to make meaning are radically changing in three realms of our existence: our working lives, our public lives (citizenship), and our private lives (lifeworld). Các ngôn ngữ cần thiết để làm cho ý nghĩa là thay đổi triệt để trong ba cảnh giới của sự tồn tại của chúng tôi: làm việc, cuộc sống của chúng tôi, cuộc sống công cộng của chúng tôi (công dân), và cuộc sống riêng tư của chúng tôi (lifeworld).
Changing Working Lives Thay đổi cuộc đời làm việc
We are living through a period of dramatic global economic change, as new business and management theories and practices emerge across the developed world. Chúng ta đang sống qua một giai đoạn thay đổi kinh tế toàn cầu đầy kịch tính, như là kinh doanh và quản lý lý thuyết và thực hành mới nổi lên trong thế giới phát triển. These theories and practices stress competition and markets centered around change, flexibility, quality, and distinctive niches - not the mass products of the "old" capitalism (Boyett & Conn, 1992; Cross, Feather, & Lynch, 1994; Davidow & Malone 1992; Deal & Jenkins, 1994; Dobyns & Crawford-Mason, 1991; Drucker, 1993; Hammer & Champy, 1993; Ishikawa, 1985; Lipnack & Stamps, 1993; Peters, 1992; Sashkin & Kiser, 1993; Senge, 1991). Những lý thuyết và thực hành cạnh tranh căng thẳng và các thị trường tập trung vào thay đổi, linh hoạt, chất lượng, và đặc biệt hốc - không phải là sản phẩm đại chúng của "chủ nghĩa tư bản" (Boyett & Conn, 1992; Cross, lông vũ, và Lynch, năm 1994; Davidow & Malone 1992 ; Deal & Jenkins, năm 1994; Dobyns & Crawford Mason-1991; Drucker, năm 1993; Hammer và Champy, năm 1993; Ishikawa, 1985; Lipnack & Tem, năm 1993; Peters, 1992; Sashkin & Kiser, năm 1993; Senge, 1991). A whole new terminology crosses and re-crosses the borders between these new business and management discourses, on the one hand, and discourses concerned with education, educational reform, and cognitive science, on the other (Bereiter & Scardamalia, 1993; Bruer, 1993; Gardner, 1991; Lave & Wenger, 1991; Light & Butterworth, 1993; Perkins, 1992; Rogoff, 1990). Một thuật ngữ hoàn toàn mới vượt qua và lại vượt qua biên giới giữa các doanh nghiệp mới và thuyết quản lý, trên một mặt, và thuyết liên quan đến giáo dục, cải cách giáo dục, khoa học nhận thức, mặt khác (Bereiter & Scardamalia, năm 1993; Bruer, 1993 ; Gardner, năm 1991; Giặt ủi & Wenger, năm 1991; Light & Butterworth, năm 1993; Perkins, năm 1992; Rogoff, 1990). The new management theory uses words that are very familiar to educators, such as knowledge (as in "knowledge worker"), learning (as in "learning organization"), collaboration, alternative assessments, communities of practice, networks, and others (Gee, 1994a). Các lý thuyết quản lý mới sử dụng những từ mà rất quen thuộc với các nhà giáo dục, chẳng hạn như kiến thức (như trong "kiến thức công nhân"), học tập (như trong "tổ chức học tập"), hợp tác, đánh giá thay thế, cộng đồng thực hành, mạng, và những người khác (Gee , 1994). In addition, key terms and interests of various postmodern and critical discourses focusing on liberation, the destruction of hierarchies, and the honoring of diversity (Faigley, 1992; Freire, 1968, 1973; Freire & Macedo, 1987; Gee, 1993; Giroux, 1988; Walkerdine, 1986) have found their way into these new business and management discourses (Gee, 1994b). Ngoài ra, điều khoản quan trọng và lợi ích của hậu hiện đại và quan trọng thuyết khác nhau tập trung vào giải phóng, sự tàn phá của hệ thống phân cấp, và tôn vinh sự đa dạng (Faigley, năm 1992; Freire, 1968, 1973; Freire và Macedo, 1987; Gee, năm 1993; Giroux, năm 1988; Walkerdine, 1986) đã tìm thấy con đường của họ vào các doanh nghiệp mới và thuyết quản lý (Gee, 1994b).
The changing nature of work has been variously called "postFordism" (Piore & Sable, 1984) and "fast capitalism" (Gee, 1994b). PostFordism replaces the old hierarchical command structures epitomized in Henry Ford's development of mass production techniques and represented in caricature by Charlie Chaplin inModern Times - an image of mindless, repetitive unskilled work on the industrial production line. Các chất thay đổi của công việc đã được đa dạng gọi là "postFordism" (Piore & Sable, 1984) và "chủ nghĩa tư bản nhanh chóng" (Gee, 1994b) thay thế. PostFordismcác cấu trúc lệnh thứ bậc tuổi mẫu mực trong của Ford phát triển Henry của các kỹ thuật sản xuất hàng loạt và đại diện trong bức tranh biếm họa bởi Charlie Chaplin trong Modern Times - một hình ảnh của vô thức, không có kỹ năng làm việc lặp đi lặp lại trên dây chuyền sản xuất công nghiệp. Instead, with the development of postFordism or fast capitalism, more and more workplaces are opting for a flattened hierarchy. Thay vào đó, với sự phát triển của postFordism hay chủ nghĩa tư bản nhanh chóng, và nơi làm việc nhiều hơn là chọn cho một hệ thống san phẳng. Commitment, responsibility, and motivation are won by developing a workplace culture in which the members of an organization identify with its vision, mission, and corporate values. Cam kết, trách nhiệm, và động lực là chiến thắng bằng cách phát triển một nền văn hóa nơi làm việc, trong đó các thành viên của một tổ chức xác định với nhiệm vụ của mình tầm nhìn, và giá trị doanh nghiệp. The old vertical chains of command are replaced by the horizontal relationships of teamwork. Các dây chuyền dọc cũ của lệnh được thay thế bởi các mối quan hệ ngang của làm việc theo nhóm. A division of labor into its minute, deskilled components is replaced by "multiskilled," well-rounded workers who are flexible enough to be able to do complex and integrated work (Cope & Kalantzis, 1995). Một phân công lao động vào, phút của các thành phần deskilled được thay thế bằng "multiskilled," toàn diện những người lao động cũng đủ linh hoạt để có thể làm được và tích hợp công việc phức tạp (Cope & Kalantzis, 1995). Indeed, in the most advanced of postFordist, fast capitalist workplaces, traditional structures of command and control are being replaced by relationships of pedagogy: mentoring, training, and the learning organization (Senge, 1991). Thật vậy, trong tiên tiến nhất của postFordist, nơi làm việc tư bản nhanh chóng, cấu trúc truyền thống của lệnh và kiểm soát đang được thay thế bởi các mối quan hệ sư phạm: tư vấn, đào tạo, học tập và tổ chức (Senge, 1991). Once divergent, expert, disciplinary knowledges such as pedagogy and management are now becoming closer and closer. Một lần khác nhau, chuyên gia, kiến thức kỷ luật như là phương pháp sư phạm và quản lý hiện nay trở nên gần hơn và gần hơn. This means that, as educators, we have a greater responsibility to consider the implications of what we do in relation to a productive working life. Điều này có nghĩa rằng, như giáo dục, chúng ta có một trách nhiệm lớn hơn để xem xét các tác động của những gì chúng ta làm liên quan đến một cuộc sống làm việc hiệu quả.
With a new worklife comes a new language. Với một worklife mới có một ngôn ngữ mới. A good deal of this change is the result of new technologies, such as the iconographic, text, and screen-based modes of interacting with automated machinery; "user-friendly" interfaces operate with more subtle levels of cultural embeddedness than interfaces based on abstract commands. Một ý tưởng tốt về sự thay đổi này là kết quả của công nghệ mới, chẳng hạn như các văn bản, iconographic, và dựa trên chế độ màn hình của tương tác với máy móc tự động; "thân thiện" giao diện hoạt động với nhiều mức độ tinh tế của văn hoá gắn kết hơn so với giao diện dựa trên trừu tượng lệnh.But much of the change is also the result of the new social relationships of work. Nhưng nhiều thay đổi là kết quả của mối quan hệ xã hội làm việc mới. Whereas the old Fordist organization depended upon clear, precise, and formal systems of command, such as written memos and the supervisor's orders, effective teamwork depends to a much greater extent on informal, oral, and interpersonal discourse. Trong khi tuổi Fordist tổ chức phụ thuộc vào, chính xác, và hệ thống chính thức rõ ràng về lệnh, chẳng hạn như bản ghi nhớ viết và của người giám sát các đơn đặt hàng, hiệu quả làm việc theo nhóm phụ thuộc vào một phạm vi lớn hơn nhiều vào, lời nói, và giữa các cá luận chính thức. This informality also translates into hybrid and interpersonally sensitive informal written forms, such as electronic mail (Sproull & Kiesler, 1991). Điều này cũng chính thức chuyển thành hybrid và interpersonally nhạy cảm bằng văn bản hình thức phi chính thức, chẳng hạn như thư điện tử (Sproull & Kiesler, 1991). These examples of revolutionary changes in technology and the nature of organizations have produced a new language of work. Những ví dụ về những thay đổi mang tính cách mạng trong công nghệ và tính chất của các tổ chức đã tạo ra một ngôn ngữ mới công việc. They are all reasons why literacy pedagogy has to change if it is to be relevant to the new demands of working life, if it is to provide all students with access to fulfilling employment. Họ là tất cả lý do tại sao phái sư phạm phải thay đổi nếu nó có liên quan đến các nhu cầu mới của cuộc sống làm việc, nếu nó là cung cấp cho tất cả học sinh tiếp cận với việc làm đầy đủ.
But fast capitalism is also a nightmare. Nhưng nhanh chóng chủ nghĩa tư bản cũng là một cơn ác mộng.Corporate cultures and their discourses of familiarity are more subtly and more rigorously exclusive than the most nasty - honestly nasty - of hierarchies. nền văn hóa doanh nghiệp và thuyết giảng của họ có nhiều hiểu biết tinh tế và độc quyền chặt chẽ hơn so với hầu hết các khó chịu - thật khó chịu - về phân cấp.Replication of corporate culture demands assimilation to mainstream norms that only really works if one already speaks the language of the mainstream. Nhân rộng các nhu cầu đồng hóa văn hóa doanh nghiệp để tiêu chủ đạo mà chỉ thực sự làm việc nếu đã nói ngôn ngữ của các trường phổ thông. If one is not comfortably a part of the culture and discourses of the mainstream, it is even harder to get into networks that operate informally than it was to enter into the old discourses of formality. Nếu một người không thoải mái một phần của văn hóa và thuyết giảng của chính, nó thậm chí còn khó khăn hơn để có được thành mạng lưới hoạt động chính thức hơn là để tham gia vào các bài giảng cũ của hình thức. This is a crucial factor in producing the phenomenon of the glass ceiling, the point at which employment and promotion opportunities come to an abrupt stop. Đây là một yếu tố quan trọng trong sản xuất các hiện tượng trần nhà kính, các điểm mà tại đó việc làm và xúc tiến các cơ hội đến với một dừng đột ngột. And fast capitalism, notwithstanding its discourse of collaboration, culture, and shared values, is also a vicious world driven by the barely restrained market. Và nhanh chóng chủ nghĩa tư bản, bất kể ngôn của mình về sự hợp tác, văn hóa và những giá trị chung, cũng là một thế giới sâu sắc do các thị trường hầu như không hạn chế. As we remake our literacy pedagogy to be more relevant to a new world of work, we need to be aware of the danger that our words become co-opted by economically and market-driven discourses, no matter how contemporary and "post-capitalist" these may appear.Khi chúng ta làm lại phương pháp sư phạm cho phái của chúng tôi 
để 
được
 nhiều 
hơn 
liên 
quan 
đến
 một
 thế 
giới
 mới
 của 
công 
việc
,
 chúng
 ta 
cần
 phải 
nhận
 thức
 được
 mối
 nguy
 hiểm
 mà
 lời 
của
 chúng
 tôi
 trở 
thành
 đồng 
chọn
 tham
 gia
 theo 
định 
hướng
 thị
 trường
 và 
thuyết
 giảng
 về
 kinh
 tế
,
 không
 có 
vấn
 đề 
đương
 đại 
như
 thế
 nào
 và
 "
hậu
 tư 
bản
này
 có
 thể
 xuất 
hiện
The 
new
 fast
 capitalist literature stresses adaptation to constant change through thinking and speaking for oneself, critique and empowerment, innovation and creativity, technical and systems thinking, and learning how to learn.
 Các tư liệu mới nhanh chóng thích ứng với thay đổi áp lực liên tục thông qua suy nghĩ và nói cho chính mình, phê bình và trao quyền cho, đổi mới và sáng tạo, kỹ thuật và hệ thống tư duy, và học cách để học.All of these ways of thinking and acting are carried by new and emerging discourses. Tất cả những cách suy nghĩ và hành động được thực hiện bằng và đang nổi lên giảng mới. These new workplace discourses can be taken in two very different ways - as opening new educational and social possibilities, or as new systems of mind control or exploitation. Những bài thuyết giảng tại nơi làm việc mới có thể được thực hiện theo hai cách khác nhau rất - như mở cửa giáo dục và xã hội, khả năng mới, hay như các hệ thống mới kiểm soát tâm trí, khai thác. In the positive sense, for instance, the emphases on innovation and creativity may fit well with a pedagogy that views language and other modes of representation as dynamic and constantly being remade by meaning-makers in changing and varied contexts. Trong ý nghĩa tích cực, ví dụ, nhấn mạnh về sự đổi mới và sáng tạo có thể phù hợp tốt với một phương pháp sư phạm mà quan điểm ngôn ngữ và các chế độ khác của đại diện như là năng động và liên tục được làm lại bởi các nhà hoạch định ý nghĩa trong việc thay đổi và các ngữ cảnh khác nhau.However, it may well be that market-directed theories and practices, even though they sound humane, will never authentically include a vision of meaningful success for all students. Tuy nhiên, nó cũng có thể là định hướng thị trường lý thuyết và thực hành, mặc dù họ âm thanh nhân đạo, sẽ không bao giờ xác thực bao gồm một tầm nhìn của sự thành công có ý nghĩa cho tất cả học sinh. Rarely do the proponents of these ideas seriously consider them relevant to people destined for skilled and elite forms of employment. Hiếm khi nào những người ủng hộ của những ý tưởng nghiêm túc xem xét chúng có liên quan đến người dân dành cho và các hình thức ưu tú có kỹ năng làm việc. Indeed, in a system that still values vastly disparate social outcomes, there will never be enough room "at the top." Thật vậy, trong một hệ thống mà vẫn còn giá trị bao la kết quả xã hội khác nhau, ở đó sẽ không bao giờ đủ chỗ "ở đầu trang." An authentically democratic view of schools must include a vision of meaningful success for all, a vision of success that is not defined exclusively in economic terms and that has embedded within it a critique of hierarchy and economic injustice. An dân chủ đích thực của các trường xem phải bao gồm một tầm nhìn của sự thành công có ý nghĩa cho tất cả, một tầm nhìn của sự thành công đó là không được định nghĩa riêng về mặt kinh tế và điều đó đã được nhúng bên trong nó một sự phê phán của hệ thống phân cấp và bất công kinh tế.

In responding to the radical changes in working life that are currently underway, we need to tread a careful path that provides students the opportunity to develop skills for access to new forms of work through learning the new language of work. Trong phản ứng với những thay đổi căn bản trong cuộc sống làm việc hiện đang tiến hành, chúng ta cần phải bước đi một con đường cẩn thận cho sinh viên cơ hội phát triển kỹ năng để truy cập vào các hình thức làm việc mới thông qua việc học ngôn ngữ làm việc mới. But at the same time, as teachers, our role is not simply to be technocrats. Nhưng đồng thời, như giáo viên, vai trò của chúng tôi không chỉ đơn giản là kỹ. Our job is not to produce docile, compliant workers. công việc của chúng tôi không phải là để sản xuất ra ngoan ngoãn, công nhân tuân thủ. Students need to develop the capacity to speak up, to negotiate, and to be able to engage critically with the conditions of their working lives. Học sinh cần phát triển khả năng nói lên, để thương lượng, và để có thể tham gia quan với các điều kiện làm việc, cuộc sống của họ.
Indeed, the twin goals of access and critical engagement need not be incompatible. Thật vậy, các mục tiêu kép của truy cập và tham gia không cần quan trọng không tương thích. The question is, how might we depart from the latest views and analyses of high-tech, globalized, and culturally diverse workplaces and relate these to educational programs that are based on a broad vision of the good life and an equitable society? Câu hỏi là, làm thế nào chúng tôi có thể xuất phát từ quan điểm mới nhất và phân tích của công nghệ, toàn cầu hóa, và văn hóa đa dạng nơi làm việc cao và liên quan đến các chương trình giáo dục dựa trên một tầm nhìn rộng của cuộc sống tốt đẹp và công bằng xã hội không? Paradoxically, the new efficiency requires new systems of getting people motivated that might be the basis for a democratic pluralism in the workplace and beyond. Nghịch lý thay, hiệu quả mới yêu cầu hệ thống mới nhận được người có động lực mà có thể là cơ sở cho một sự đa nguyên dân chủ tại nơi làm việc và hơn thế nữa. In the realm of work, we have called this utopian possibility productive diversity, the idea that what seems to be a problem - the multiplicity of cultures, experiences, ways of making meaning, and ways of thinking - can be harnessed as an asset (Cope & Kalantzis, 1995). Cross-cultural communication and the negotiated dialogue of different languages and discourses can be a basis for worker participation, access, and creativity, for the formation of locally sensitive and globally extensive networks that closely relate organizations to their clients or suppliers, and structures of motivation in which people feel that their different backgrounds and experiences are genuinely valued. Trong lĩnh vực công việc, chúng tôi đã kêu gọi này có khả năng sản xuất đa dạng không tưởng, ý tưởng rằng những gì có vẻ là một vấn đề - sự đa dạng của nền văn hóa, kinh nghiệm, cách làm cho ý nghĩa, và cách suy nghĩ - có thể được khai thác như là một tài sản (Cope & Kalantzis, 1995) giao tiếp. Cross-văn hóa và thương lượng đối thoại của các ngôn ngữ khác nhau và giảng có thể là một cơ sở cho sự tham gia của người lao động, truy cập, và sáng tạo, cho sự hình thành của nhạy cảm và trên toàn cầu mở rộng mạng lưới tại địa phương có liên quan chặt chẽ tổ chức cho các khách hàng của họ hoặc nhà cung cấp, và cấu trúc của động cơ trong đó mọi người cảm thấy rằng những kinh nghiệm khác nhau của họ nguồn gốc, và là thật sự có giá trị. Rather ironically, perhaps, democratic pluralism is possible in workplaces for the toughest of business reasons, and economic efficiency may be an ally of social justice, though not always a staunch or reliable one. Thay trớ trêu thay, có lẽ, dân chủ đa nguyên có thể ở nơi làm việc cho các khó khăn nhất của các lý do kinh doanh, và kinh tế hiệu quả có thể là một đồng minh của công bằng xã hội, mặc dù không phải luôn luôn đáng tin cậy trung thành hoặc một trong một.
Changing Public Lives 
Thay 
đổi
 cuộc
 sống
 công
 cộng

Con số 7 kỳ diệu

Dương Quang Minh
Truyền hình VTV
  
 
02:16' AM - Chủ nhật, 18/01/2009
Bảy người bạn trên một chuyến xe về quê trong dịp Tết. Một người gợi chuyện: “Bác Hồ đi chiến dịch Biên giới năm 1950 có tiết mục Vừa đi đường vừa kể chuyện, chúng ta học Bác, đường về miền Trung còn dài, ai có chuyện gì kể cho vui”.

Một bạn lên tiếng: “Ta có bảy người, mỗi người góp một chuyện”. Bạn nữa hưởng ứng: “Bảy anh em ta hồi nhỏ học cùng một lớp, thời chiến tranh mỗi người mỗi ngả, nay may sao được sống gần nhau, vậy ta nói chuyện về con số 7. Con số này kỳ diệu lắm. Mình tâm đắc 7 điều cụ Khổng Tử dạy và nghiệm thấy quá đúng. 7 điều ấy gồm: 1. Tâm chưa yên, phong thủy vô ích; 2. Bất hiếu với cha mẹ, thờ cúng vô ích; 3. Anh em không thuận hòa, bạn bè vô ích; 4. Thích điều bất chính, đọc sách vô ích; 5. Làm trái lòng người, thông minh vô ích; 6. Chẳng giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích; 7. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích”.
“Hay”.“Hay”. “Tất cả là những bài học lớn”. Chúng tôi có cùng lời bình. Một bạn bàn thêm: “7 điều cụ Khổng dạy là công thức giúp ra thấy rõ đâu là gốc đâu là ngọn, đâu là thực đâu là hư, và đó cũng là thước đo giúp ta tu chỉnh mình”. Rồi anh cất cao giọng: “Triết lý Trung Hoa đã cao kiến, triết lý Ấn Độ cũng không kém. Mình còn nhớ 7 điều cụ Nê Ru khuyên nhân dân nước cụ tránh cho xa, vì đó là “7 điều tội lỗi”, bao gồm: 1. Thuơg mại mà thiếu đạo đức; 2. Khoa học mà thiếu nhân văn; 3. Chính trị mà thiếu nguyên tắc; 4. Đam mê mà thiếu lương tâm; 5. Tri thức mà thiếu bản sắc; 6. Tôn thờ mà không dám hy sinh; 7. Giàu có mà không do tự mình làm ra”.
“Hay”.“Hay”. “Đây cũng là những bài học lớn”. “Bài thuốc của Nê Ru hẳn cứu được nhiều người”. Chúng tôi liên tiếp đưa ra nhiều lời bình phẩm. Rồi một bạn nói: “Giờ thì mình xin kể chuyện diễn ra thường nhật quanh ta, mà giá trị triết lý chẳng kém. Chuyện tiền nong ấy mà. Không ít người coi tiền là chìa khóa vạn năng, có tiền là có tất cả, song họ bị nhiều người phản bác bằng lập luận: 1. Tiền có thể mua được chức tước nhưng không mua được sự kính trọng; 2. Tiền có thể mua được bằng cấp cao nhưng không mua được tổ ấm; 4. Tiền mua được người mình thích nhưng không mua được tình yêu; 5. Tiền mua được chiếc giường đẹp nhưng không mua được giấc ngủ ngon; 6. Tiền mua được mức bảo hiểm cao nhưng không mua được sự an toàn; 7. Tiền mua được đồng hồ xịn nhưng không mua được thời gian”.

Tới đây, không khí trong xe chìm xuống. Ai cũng gật đầu, song không ai đưa ra lời bình. Có lẽ từng người đang liên hệ đến những cảnh đời trớ trêu. Tôi ngoảnh sang bạn bên phải thăm dò: “Cậu đang nghĩ gì vậy?”, liền nhận được lời đáp: “Trường hợp 1 và 2 về tiền chắc người ta nói tới mấy ông “danh hão” ở cơ quan mình”. Quay sang bạn bên trái, tôi được câu trả lời: “Trường hợp 3 và 4 có lẽ chỉ mấy người ở phố mình, thừa tiền thiếu tình”. Một bạn từ ghế trên ngoảnh xuống nói: “Hình như trường hợp 5 và 6 người ta dành cho mấy thằng cha kinh doanh rởm mình đã gặp”.

Tính ra, các bạn đã liên hệ tới 6 trường hợp liên quan đến đồng tiền, còn trường hợp cuối ý dành cho tôi. Tôi liền nhắc tới bài học “cách trí” mà thầy giáo quê nhà đã dạy cách đây nửa thế kỷ, cũng con số 7, cũng kỳ diệu như triết học nước ngoài, trong đó thời gian được đặt ở vị trí số 1. Thầy cắt nghĩa: “Thời gian của một cuộc đời là hữu hạn chứ không vô hạn đâu các con ạ. Bởi vậy, ai ai cũng phải quý trọng nó, đừng lãng phí nó. 6 vị trí còn lại phải là: Làm việc hết mình; Thấy của không ham; Thấy lợi không tranh; Lưu tâm việc nghĩa; Chân tình với người; Đối xử rộng lượng”. Kể xong, chúng tôi cùng vỗ tay và cùng nhớ về mái trường xưa đầy ắp kỷ niệm trên một vùng đất nghèo khó và ham học. Xây dựng và củng cố niềm tin trong xã hội ta hiện nay - gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất, tác giả phân tích sự biến đổi niềm tin trong xã hội ta. Theo tác giả các sinh hoạt tín ngưỡng bản địa, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với nước, lễ hội dân gian cùng với các tôn giáo lớn du nhập vào Việt Nam đã. tác động khá lớn đến niềm tin của xã hội ta. Hiện nay, những hình thức niềm tin này vẫn tồn tại và có xu hướng biến đổi cho phù hợp với tình hình mới (tr.167 - 188). Trong phần này, tác giả cũng trình bày thực trạng niềm tin ở nước ta từ khi có Đảng. Theo tác giả, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, đất nước ta đã thoát khỏi ách nô lệ, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc thì niềm tin của xã hội ta trở nên có cơ sở vững chắc hơn và chính niềm tin cách mạng là nhân tố cảm hoá, chuyển đổi các loại niềm tin phi khoa học khác theo hướng lành mạnh, phục vụ sự tiến bộ xã hội (tr.189 - 213).
Nhận thức được tầm quan trọng của niềm tin khoa học đối với đời sống xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong nội dung thứ hai của chương này, tác giả đề xuất những phương hướng. xây dựng và củng cố niềm tin khoa học cho nhân dân, bao gồm việc nâng cao dân trí, tri thức khoa học (tr.214 - 219), phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao cuộc sống (tr.219 - 224), trang bị thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (tr.224 - 229), tích cực tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học (tr.229 - 236).
Vấn đề niềm tin là vấn đề khá mới mẻ và nhạy cảm, nhưng trong cuốn Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, vấn đề này đã được TS.Trịnh Đình Bảy giải quyết một cách khoa học và đúng mực. Bạn đọc có thể tìm được nhiều điều bổ ích từ cuốn sách này.


Con số 7 kỳ diệu

Dương Quang Minh
Truyền hình VTV
  
 
02:16' AM - Chủ nhật, 18/01/2009
Bảy người bạn trên một chuyến xe về quê trong dịp Tết. Một người gợi chuyện: “Bác Hồ đi chiến dịch Biên giới năm 1950 có tiết mục Vừa đi đường vừa kể chuyện, chúng ta học Bác, đường về miền Trung còn dài, ai có chuyện gì kể cho vui”.
Một bạn lên tiếng: “Ta có bảy người, mỗi người góp một chuyện”. Bạn nữa hưởng ứng: “Bảy anh em ta hồi nhỏ học cùng một lớp, thời chiến tranh mỗi người mỗi ngả, nay may sao được sống gần nhau, vậy ta nói chuyện về con số 7. Con số này kỳ diệu lắm. Mình tâm đắc 7 điều cụ Khổng Tử dạy và nghiệm thấy quá đúng. 7 điều ấy gồm: 1. Tâm chưa yên, phong thủy vô ích; 2. Bất hiếu với cha mẹ, thờ cúng vô ích; 3. Anh em không thuận hòa, bạn bè vô ích; 4. Thích điều bất chính, đọc sách vô ích; 5. Làm trái lòng người, thông minh vô ích; 6. Chẳng giữ nguyên khí, uống thuốc vô ích; 7. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích”.
“Hay”.“Hay”. “Tất cả là những bài học lớn”. Chúng tôi có cùng lời bình. Một bạn bàn thêm: “7 điều cụ Khổng dạy là công thức giúp ra thấy rõ đâu là gốc đâu là ngọn, đâu là thực đâu là hư, và đó cũng là thước đo giúp ta tu chỉnh mình”. Rồi anh cất cao giọng: “Triết lý Trung Hoa đã cao kiến, triết lý Ấn Độ cũng không kém. Mình còn nhớ 7 điều cụ Nê Ru khuyên nhân dân nước cụ tránh cho xa, vì đó là “7 điều tội lỗi”, bao gồm: 1. Thuơg mại mà thiếu đạo đức; 2. Khoa học mà thiếu nhân văn; 3. Chính trị mà thiếu nguyên tắc; 4. Đam mê mà thiếu lương tâm; 5. Tri thức mà thiếu bản sắc; 6. Tôn thờ mà không dám hy sinh; 7. Giàu có mà không do tự mình làm ra”.
“Hay”.“Hay”. “Đây cũng là những bài học lớn”. “Bài thuốc của Nê Ru hẳn cứu được nhiều người”. Chúng tôi liên tiếp đưa ra nhiều lời bình phẩm. Rồi một bạn nói: “Giờ thì mình xin kể chuyện diễn ra thường nhật quanh ta, mà giá trị triết lý chẳng kém. Chuyện tiền nong ấy mà. Không ít người coi tiền là chìa khóa vạn năng, có tiền là có tất cả, song họ bị nhiều người phản bác bằng lập luận: 1. Tiền có thể mua được chức tước nhưng không mua được sự kính trọng; 2. Tiền có thể mua được bằng cấp cao nhưng không mua được tổ ấm; 4. Tiền mua được người mình thích nhưng không mua được tình yêu; 5. Tiền mua được chiếc giường đẹp nhưng không mua được giấc ngủ ngon; 6. Tiền mua được mức bảo hiểm cao nhưng không mua được sự an toàn; 7. Tiền mua được đồng hồ xịn nhưng không mua được thời gian”.

Tới đây, không khí trong xe chìm xuống. Ai cũng gật đầu, song không ai đưa ra lời bình. Có lẽ từng người đang liên hệ đến những cảnh đời trớ trêu. Tôi ngoảnh sang bạn bên phải thăm dò: “Cậu đang nghĩ gì vậy?”, liền nhận được lời đáp: “Trường hợp 1 và 2 về tiền chắc người ta nói tới mấy ông “danh hão” ở cơ quan mình”. Quay sang bạn bên trái, tôi được câu trả lời: “Trường hợp 3 và 4 có lẽ chỉ mấy người ở phố mình, thừa tiền thiếu tình”. Một bạn từ ghế trên ngoảnh xuống nói: “Hình như trường hợp 5 và 6 người ta dành cho mấy thằng cha kinh doanh rởm mình đã gặp”.

Tính ra, các bạn đã liên hệ tới 6 trường hợp liên quan đến đồng tiền, còn trường hợp cuối ý dành cho tôi. Tôi liền nhắc tới bài học “cách trí” mà thầy giáo quê nhà đã dạy cách đây nửa thế kỷ, cũng con số 7, cũng kỳ diệu như triết học nước ngoài, trong đó thời gian được đặt ở vị trí số 1. Thầy cắt nghĩa: “Thời gian của một cuộc đời là hữu hạn chứ không vô hạn đâu các con ạ. Bởi vậy, ai ai cũng phải quý trọng nó, đừng lãng phí nó. 6 vị trí còn lại phải là: Làm việc hết mình; Thấy của không ham; Thấy lợi không tranh; Lưu tâm việc nghĩa; Chân tình với người; Đối xử rộng lượng”. Kể xong, chúng tôi cùng vỗ tay và cùng nhớ về mái trường xưa đầy ắp kỷ niệm trên một vùng đất nghèo khó và ham học. Xây dựng và củng cố niềm tin trong xã hội ta hiện nay - gồm hai nội dung. Nội dung thứ nhất, tác giả phân tích sự biến đổi niềm tin trong xã hội ta. Theo tác giả các sinh hoạt tín ngưỡng bản địa, thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với nước, lễ hội dân gian cùng với các tôn giáo lớn du nhập vào Việt Nam đã. tác động khá lớn đến niềm tin của xã hội ta. Hiện nay, những hình thức niềm tin này vẫn tồn tại và có xu hướng biến đổi cho phù hợp với tình hình mới (tr.167 - 188). Trong phần này, tác giả cũng trình bày thực trạng niềm tin ở nước ta từ khi có Đảng. Theo tác giả, kể từ khi có Đảng lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, đất nước ta đã thoát khỏi ách nô lệ, đời sống nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc thì niềm tin của xã hội ta trở nên có cơ sở vững chắc hơn và chính niềm tin cách mạng là nhân tố cảm hoá, chuyển đổi các loại niềm tin phi khoa học khác theo hướng lành mạnh, phục vụ sự tiến bộ xã hội (tr.189 - 213).
Nhận thức được tầm quan trọng của niềm tin khoa học đối với đời sống xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong nội dung thứ hai của chương này, tác giả đề xuất những phương hướng. xây dựng và củng cố niềm tin khoa học cho nhân dân, bao gồm việc nâng cao dân trí, tri thức khoa học (tr.214 - 219), phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao cuộc sống (tr.219 - 224), trang bị thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh (tr.224 - 229), tích cực tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học (tr.229 - 236).
Vấn đề niềm tin là vấn đề khá mới mẻ và nhạy cảm, nhưng trong cuốn Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, vấn đề này đã được TS.Trịnh Đình Bảy giải quyết một cách khoa học và đúng mực. Bạn đọc có thể tìm được nhiều điều bổ ích từ cuốn sách này.

Xăng dầu chuyển lãi thành lỗ: Đã làm từ lâu

Tác giả: PHẠM HUYỀN
Bài đã được xuất bản.: 23/12/2011 06:00 GMT+7
(VEF.VN) - Bán cho đại lý thấp hơn giá vốn, chi hoa hồng cao hơn 45% mức quy định, các công ty "mẹ" xăng dầu đều dồn lãi sang con để chịu lỗ, gây áp lực đòi tăng giá. Tuy nhiên, Bộ Tài chính đang nương tay khi để doanh nghiệp "tự xử".
Dồn lãi từ mẹ sang con rồi... kêu lỗ
Cả 4 doanh nghiệp xăng dầu trong đợt kiểm tra vừa qua của Bộ Tài chính gồm Petrolimex, PVoil, Petimex, SaigonPetro đều có chung một kịch bản lỗ rất giống nhau: Do chi phí  kinh doanh, đặc biệt là thù lao cho các đại lý, Tổng đại lý quá cao, vượt xa định mức 600 đồng/lít khiến giá vốn thực tế của doanh nghiệp đầu mối bị đẩy lên cao.
Trong 6 tháng đầu năm nay, Petrolimex đã có mức chi phí kinh doanh vượt định mức tính theo giá cơ sở là hơn 516 tỷ đồng, SaigonPetro chi vượt hơn 75 tỷ đồng, PVOil chi tăng hơn 186 tỷ đồng và Petimex, đơn vị khó khăn nhất trong các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu cũng chi cao hơn 193 tỷ đồng.
Vì sao các doanh nghiệp đầu mối gặp khó khăn, luôn miệng than lỗ lại mạnh tay hào phóng chi hoa hồng cao cho các đại lý bán lẻ như vậy? Nghịch lý này thể hiện rõ nét ở chỗ, có những giai đoạn doanh nghiệp đầu mối có cơ hội kinh doanh lãi, bằng việc giảm chiết khấu, để bù lỗ trước đó, nhưng các doanh nghiệp này lại bỏ qua.
Đặc biệt, từ cuối tháng 5 đến ngày 26/8/2011, giá xăng dầu thế giới giảm, các công ty mẹ xăng dầu đã không giảm chiết khấu mà vẫn duy trì mức cao cho các đại lý. Đây thực sự là một động thái khó hiểu trong logic kinh doanh thông thường.
Đơn cử như tại công ty Petimex, trung bình thù lao cho đại lý trong tháng 6 là hơn 867,29 đồng/lít, trung bình từ ngày 1/7 đến 26/8 là 859,68 đồng/lít. So với 5 tháng trước đó, mức thù lao bình quân tháng 6 đã tăng lên 590,11 đồng/lít. Mức trung bình gần 2 tháng kế tiếp 7-8 đã tăng 582,5 đồng/lít.
Chính sách bán hàng nội bộ này rất kỳ lạ vì ngược với xu hướng thị trường xăng dầu khi đó. Bộ Tài chính cho hay, giai đoạn này, giá xăng dầu thế giới đang giảm, giá CIF cdầu Diesel do Petimex giảm tới 919 đồng/lít, giá bán lẻ trong nước vẫn chưa giảm. Đây là thời điểm "vàng", công ty Petimex hoàn toàn có thể giảm chiết khấu cho đại lý để hưởng lãi, bù lỗ giai đoạn trước.
Tương tự, SaigonPetro cũng vẫn giữ mức thù lao cho đại lý tới 714 đồng/lít ở tháng 6 và mức 782,77 đồng/lít trong giai đoạn từ 1/7- 26/8. Trong khi đó, thời điểm này, SaigonPetro đã nhập dầu diesel với giá CIF giảm tới 1.494 đồng/lít so với tháng 4-5.
Tại Công ty xăng dầu B12 thuộc Petrolimex, thù lao cho đại lý tháng 7 đối với dầu diesel lên cao nhất tới 830 đồng/lít.
Tổ kiểm tra của Bộ Tài chính đã nhận định, với cơ chế xác định giá bán xăng dầu của các đại lý, tổng đại lý của Petrolimex bằng công thức giá bán lẻ trừ lùi một khoản thù lao cho đại lý thì việc đẩy thù lao cho đại lý lên cao, nhằm chiếm giữ thị phần là sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp đầu mối.
Thứ trưởng Vũ Thị Mai, Bộ Tài chính đánh giá, trong điều kiện Nhà nước đã có chính sách bình ổn giá, các doanh nghiệp đầu mối đáng lẽ phải tiết giảm chi phí kinh doanh để chia sẻ cùng Nhà nước và người tiêu dùng. Tuy nhiên, thực tế kiểm tra cho thấy, các doanh nghiệp đầu mối đã làm điều ngược lại, tăng hoa hồng đúng lúc có thể giảm.
Bán thấp hơn giá vốn tới 847 tỷ đồng để bình ổn?
Riêng tại Petrolimex, hiện tượng chuyển lỗ từ mẹ sang con còn thể hiện đậm nét hơn ở câu chuyện bán cho đại lý thấp hơn cả giá vốn. Các tài liệu được chính Tổng công ty cung cấp cho thấy, giá bán cho các đại lý đã thấp hơn giá vốn tới 847 tỷ đồng.
Trong đó, giá bán của Tổng công ty cho 16 công ty con thấp hơn giá vốn hơn 100 tỷ đồng. Giá bán cho các Tổng đại lý và đại lý bên ngoài hệ thống của Petrolimex cũng thấp hơn giá vốn hàng bán bình quân là 620 tỷ đồng. Đối với các tổng đại lý Công ty TMDL Kiên Giang và Tổng đại lý Công ty CP Hóa dầu Quân đội MIPEC, giá bán của Petrolimex cũng thấp hơn giá vốn tới hơn 126 tỷ đồng.
Tổ kiểm tra của Bộ Tài chính cho biết, sau khi loại trừ các yếu tố như chênh lệch tỷ giá, chi vượt định mức... thì mức chênh lệch giá bán và giá vốn này còn 111 tỷ đồng.
Với cách thức kinh doanh như vậy, đương nhiên kết quả của công ty mẹ Petrolimex sẽ lỗ lớn trong khi hàng chục hệ thống đại lý, tổng đại lý lại lãi lớn. Điều khó hiểu này được Petrolimex giải trình rằng, do thực hiện bình ổn giá, phải bán tới các đại lý con thấp hơn cả giá vốn để giữ giá bán lẻ và đảm bảo cung ứng cho hệ thống, lưu thông xăng dầu.
Tuy nhiên, lỗ của Petrolimex còn có cả những nguyên nhân khác như trích  khấu hao tài sản cố định vẫn ở mức tối đa nên càng làm tăng số lỗ. Trong khi đó, giai đoạn kinh tế khó khăn, bình ổn giá, doanh nghiệp này có thể chỉ cần trích khấu hao ở mức trung bình để có dư địa giảm gánh nặng lỗ.
Có thể thấy rằng, cả 4 doanh nghiệp đầu mối xăng dầu đều có những động thái "chuyển lỗ" trong kinh doanh: không tìm cách giảm giá thành, giảm chi phí mà lại chỉ tìm cách tăng lên.
Lãnh đạo Bộ Công Thương và doanh nghiệp xăng dầu nại rằng, 600 đồng/lít định mức chi phí kinh doanh là không đủ, hay nếu không để lãi hợp lý cho đại lý thì hệ thống phân phối xăng dầu sẽ vỡ, các đại lý sẽ đóng cửa, đứt nguồn cung...
Dù vậy, dư luận vẫn không thể đồng thuận với kiểu cách kinh doanh trên. Người tiêu dùng hoàn toàn có cơ sở hiểu rằng, các đầu mối xăng dầu cố tình "lỗ" để có cớ đòi tăng giá bán lẻ rồi đòi xả Quỹ bình ổn để bù. Người dân hoàn toàn có lý khi lo  ngại toàn bộ lợi nhuận của lĩnh vực kinh doanh xăng dầu rơi vào tài khoản của các đại lý, tổng đại lý, công ty con  và theo một cách nào đó, khoản lợi nhuận này sẽ được "chuyển" ngược về các lãnh đạo công ty mẹ.
Bộ Tài chính để doanh nghiệp "tự xử"
Tuy nhiên, thái độ hiện nay của Bộ Tài chính dường như vẫn xem nhẹ "lỗi" này và đang nương tay cho các doanh nghiệp. Bà Vũ Thị Mai, Thứ trưởng Bộ Tài chính bày tỏ: Những sai sót của doanh nghiệp sẽ không bị xử phạt là vì vẫn trong thời gian quyết toán thuế, niên độ tài chính của doanh nghiệp nên doanh nghiệp phải tự rà soát.
Ông Lê Hoàng Hải, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp cho rằng, chúng tôi đã xác định bất cập và chỉ cảnh báo doanh nghiệp thôi. Chỉ trừ khi doanh nghiệp không tự điều chỉnh thì mới phải xử lý.
"Nên để doanh nghiệp tự xử trước đã. Chúng ta cần nâng cao tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp", ông Hải nói.
Tuy nhiên, ông Hải cũng cho rằng, làm như các doanh nghiệp đầu mối thì đương nhiên, kết quả sẽ là lỗ mẹ và lãi con. Dù chưa có căn cứ rõ ràng về việc có chuyện chuyển giá hay không những rõ ràng câu chuyện này có vấn đề. Bộ Tài chính sẽ giao thêm các đơn vị chức năng khác làm rõ sáng tỏ các bất cập trên, gồm cả việc bán cho đại lý thấp hơn giá vốn của Petrolimex.
Ông Hải cho rằng, Thông tư của Bộ Công Thương cho phép các doanh nghiệp đầu mối tự thỏa thuận thù lao với đại lý cần phải xem xét lại. Vì theo ông, sau kiểm tra 4 doanh nghiệp, thu lao đại lý cần phải được khống chế, xác định lại theo một khung nhất định để hạn chế kinh doanh không lành mạnh.  Bộ Công Thương và Bộ Tài chính sẽ cùng xem xét lại cơ chế chính sách hiện hành để việc quản lý kinh doanh xăng dầu có hiệu quả hơn.

Trình bày:Air Supply
Web: NgheNhacSo1.Com







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét